Phương pháp giáo dục thực tiễn của Hirakv

Đăng ngày 26/10/2014 bởi iSenpai

Điểm nổi bật của phương pháp giáo dục Hirakv chính là thực tiễn và quần chúng. Đây cũng là lý do khiến cho nhiều ông bố bà mẹ và những người làm công tác giáo dục rất hưởng ứng và ủng hộ phương pháp giáo dục của Hirakv.

1

Phương pháp giáo dục của Hirakv rất được ưa chuộng ở Việt Nam

1. KHÔNG ÁP DỤNG NHỮNG YÊU CẦU, TIÊU CHÍ CỦA NGƯỜI LỚN
Nếu đến thăm quan các trường mẫu giáo ở Mỹ hoặc Châu Âu, chúng ta thường bắt gặp trẻ em tham gia một loại hoạt động vẽ tranh. Tham gia hoạt động này, các em được mặc những bộ quần ảo “bảo hộ” tay cầm bút vẽ, chân đứng trên những tấm vải lớn chải trên nền nhà đặt làm giấy vẽ. Điều đặc biệt là các em có thể vung vẩy màu vẽ mà không sợ quần áo dính bẩn (vì đã khoáng trên người bộ quần áo “bảo hộ”!). Ban đầu, Hirakv không hiểu được ý nghĩa của hoạt động này. Về sau, người ta đã giải thích với ông rằng đây là phương pháp “thư giãn” đối với trẻ nhỏ.

Về hoạt động vẽ tranh, đối với học sinh năm cuối cấp tiểu học, vẽ được một bức tranh không phải là yêu cầu quá phức tạp, nhưng điều quan trọng hơn là làm cách nào để bọn trẻ luôn say mê và thích thú với vẽ tranh.
Khi ngắm tranh của trẻ em, chúng ta thường dùng những tiêu chí của người lớn để đánh giá, bình phẩm. Đây là một sai lầm lớn! Khi trẻ nhỏ vẽ tranh, trẻ dồn tâm sức và hứng thú của mình để kết hợp nhuần nhuyễn trí não và bàn tay điều khiển bút vẽ, bức tranh vẽ ra tuy không nhiều kỹ xảo như người lớn nhưng lại tràn đầy sức sống, tinh lực của con trẻ.

Một bức tranh như thế xứng đáng là một bức tranh hoàn hảo.
Một hiện tượng khác như sau: các bà mẹ thường cố gắng đốc thúc con cái học hành, chẳng hạn theo kiểu: “Đã năm cuối cấp tiểu học, mỗi ngày con phải học thêm một tiếng, nếu không thì tiến bộ sao được?” hoặc có lúc đem một đứa trẻ khác học giỏi hơn để so sánh với con cái mình… Nguyên nhân của những hiện tượng này là vì bố mẹ thường đặt sẵn trong suy nghĩ bản thân “mô hình lý tưởng về một đứa con ngoan”, sau đó mang những suy nghĩ chủ quan này để yêu cầu, đòi hỏi con cái mình thực hiện bằng được.

Thế nhung, mỗi đứa trẻ là một “thế giới đầy sống động và cá tính”, chúng không thể luôn luôn thực hiện theo các ý nguyện của cha mẹ. Hơn nữa, cũng có trường hợp trẻ im lặng nghe theo những sắp đặt của cha mẹ, nhưng sự thực hiện thụ động này liệu có mang lại hiệu quả đích thức ở mỗi đứa trẻ hay không? Một khi không đạt được hiệu quả thực chất thì điểm đích của giáo dục sẽ không đạt được.

Tình hình còn nghiêm trọng hơn khi một số đứa trẻ lẳng lặng đóng cửa phòng của mình, thay vì ngồi học bài, chúng lén lút đọc những trang truyện tranh mình yêu thích.

Tất cả những hiện tượng trên, muốn thay đổi, chúng ta phải có một số liệu pháp điều chỉnh mang tính chất tâm lý. Trước hết, bố mẹ hãy vứt bỏ những đòi hỏi hay mức yêu cầu quá cao đối với con cái mình. Hãy nhìn thực tiễn năng lực, cá tính của con cái để đưa ra các mục tiêu phù hợp và khả thi. Nếu như yêu cầu trẻ có một tiếng đồng hồ tập trung bài học nhưng thực sự trẻ không thực hiện được, bạn hãy yêu cầu trẻ dành 10 đến 15 phút tập trung thay vì một tiếng đồng hồ ngồi bên bàn học nhưng chẳng bài vở nào được giải quyết chu đáo. Việc này rất thực tiễn ngay cả đối với người lớn. Nhận một công việc đòi hỏi quá sức, chúng ta thường dễ sa vào tình trạng nhụt chí, ngại làm, cho dù miễn cưỡng làm thì chưa chắc đã đạt được kết quả. Nếu như mục tiêu hợp lý, năng lực phù hợp thì chúng ta chắc chắn sẽ cố gắng hoàn thành và sẽ hoàn thành xuất sắc công việc. Tâm lý dễ chán nản của đứa trẻ cũng gần như vậy. Ban đầu, người lớn yêu cầu trẻ tập trung học bài trong 10 hoặc 15 phút. Khi trẻ thực hiện tốt, chúng ta hãy biểu dương tinh thần phấn đấu của trẻ. Rèn luyện với tinh thần như vậy, mục tiêu thời gian tập trung được dần dần kéo dài hơn (đến 30 phút, 60 phút), chắc chắn hiệu quả giáo dục sẽ thành công mà trẻ thành tâm tự nguyện đối với công việc mà mục tiêu cần thực hiện.

2. ỨNG XỬ VỚI TRẺ NHƯ ĐỐI VỚI MỘT CÁ NHÂN ĐỘC LẬP
Một học giả Mỹ trong tiến trình điều tra nghiên cứu về mối quan hệ mẹ – con đã phát hiện ra rằng: sự khác biệt lớn nhất về quan hệ mẹ – con giữa các bà mẹ ở Mỹ và ở Nhật Bản là các bà mẹ Nhật Bản rất ít trò chuyện với con cái, trong khi các bà mẹ Mỹ thường xuyên thực hiện việc này.

Kết quả phân tích của học giả này cũng cho biết, các bà mẹ Nhật Bản thường coi con cái là một phần của bản thân mình, thậm chí giống như là một phần của cơ thể mình, và đó là lý do khiến họ cảm thấy không cần dùng nhiều lời nói để diễn tả tình cảm hoặc tâm tình, trò chuyện với con cái. Các bà mẹ Nhật Bản có xu hướng biểu hiện tình cảm với con cái bằng sự vỗ về, ôm ấp, bế ẵm.

Tình cảm mẹ còn được hình thành như một thứ “tâm truyền” và cách giáo dục con trẻ cũng thực hiện theo con đường này.
Hoàn toàn trái ngược với Nhật Bản, các bà mẹ ở Mỹ luôn cư xử với con cái như những người đã trưởng thành. Họ thường nói chuyện, thương lượng, bàn bạc với con cái, tất nhiên cũng có lúc đi đến cực đoan ở điểm con trẻ không phải luôn hiểu được mọi câu chuyện.

Một bên, các bà mẹ thừa nhận con cái là một phần máu thịt cơ thể của bản thân; một bên, các bà mẹ nhìn nhận con cái là những thành viên độc lập – trong hai cách ứng xử này, phía nào đem lại cho con cái tâm lý tự tin, tự chủ trong cuộc sống? Điều này đã rõ ràng. Tuy nhiên, từ một góc độ nào đó, thói quen ứng xử của các bà mẹ Nhật Bản không phải hoàn toàn vô nghĩa.

Ở nước Mỹ, khi phát hiện một học sinh đem chất ma tuý theo người, người ta lập tức báo cho cảnh sát và buộc học sinh phải chịu trách nhiệm như một cá nhân độc lập. Nếu việc này xảy ra ở Nhật Bản, thông thường nhà trường sẽ báo với gia đình học sinh trước khi đưa sự việc đến đồn cảnh sát. Trong những trường hợp như vậy, trách nhiệm sẽ thuộc cả về gia đình của học sinh đã phạm tội.

Dù sao, cách giáo dục của Mỹ và nhiều nước châu Âu rất đáng kể chúng ta học tập – đó là hãy nhìn nhận bọn trẻ như những cá thể độc lập. Nếu như biết rằng trong các gia đình người Nga, điều đầu tiên bố mẹ cần ghi nhớ là nói “không” với con cái, chúng ta sẽ nhận ra bố mẹ Nhật Bản vẫn còn quá nuông chiều con cái của mình. Câu đầu tiên của các bà mẹ Nhật Bản với con cái vẫn thường là “mẹ của con dây…!”.

3. BIẾN HỌC TẬP THÀNH VUI CHƠI
Người Nhật Bản hình như rất không thích chuyện “vui chơi”. Trong tiếng Nhật, từ chỉ “người vui chơi” cũng có nghĩa là bị người khác ghét bỏ, còn “vui chơi” trở thành từ trái nghĩa với “làm việc” hoặc “thành thật”. Đối với Nhật Bản, “vui chơi” bị coi là một sự không mấy tốt đẹp.

Trên thực tế, “vui chơi” cũng có một phương diện tiêu cực, đó là chỉ những việc tiêu phí thời gian vô ích vào những chuyện không đâu, nhàn nhã hưởng lạc, xa hoa phù phiếm. Thế nhưng, Giáo sư Hirakv đã phát hiện ra một đặc điểm vô cùng lý thú về “vui chơi” – đó là chỉ trong vui chơi và chỉ con người mới có khả năng tìm được niềm vui cũng như hứng tú từ vui chơi. Khi vui chơi, con người ta không bị câu thúc bởi các lễ nghi hoặc chịu tác động bởi những thói quen tập quán, vì thế người ta đạt được tinh thần vô cùng tự do. Vui chơi tuy chưa thể gọi là một hành vi nhiều tính sáng tạo nhưng lại mang tính thể nghiệm lớn. Đôố với con trẻ, thậm chí có thể nói rằng, chính vui chơi là môi trường đem lại nhiều sự học hành hơn cả. Người lớn vẫn tin chắc rằng hoàn toàn hợp lý khi phân biệt rõ ràng giữa “vui chơi” và “học hành”, thế nhưng, điều này hoàn toàn ngược lại đối với con trẻ.

Ở nước Mỹ, có một chương trình truyền hình dạy chữ cho trẻ em. Phương pháp của chương trình này khá đặc biệt, đó là lợi dụng nguyên lý của “quảng cáo”. Họ phát hiện thấy rằng, trẻ em rất thích quảng cáo và chịu nhiều tác động bởi quảng cáo. Trẻ em có thể dễ dàng ghi nhớ những bài hát và từ ngữ có trong quảng cáo và rất nhanh chóng sử dụng được những từ ngữ này. Với phương châm độc đáo, chương trình truyền hình này đã rất thành công. Trẻ em không chỉ vui chơi với trò chơi mà con nhanh chóng tiếp thu việc học hành với tinh thần thoải mái và đầy hứng thú.

Muốn phát huy trí lực của trẻ, đầu tiên phải làm cho trẻ cảm thấy hứng thú và yêu thích, trên cơ sở đó mới giúp đỡ trẻ thực hiện công việc hoặc tiếp thu tri thức một cách thoải mái và vui vẻ. Từ khi quan điểm này xuất hiện trong giáo dục học, người ta đã bàn bạc và đưa ra nhiều kết luận khác nhau.

Một nhà tâm lý học người Mỹ đã dạy trẻ em học chữ cái và những từ đơn giản thông qua trò chơi “nhảy lò cò”. Ông viết chữ cái trên mặt đất, dạy các em vừa nhảy lò cò vừa đọc các chữ cái và các từ đơn giản trong tiếng Anh. Cách làm của ông đã thu được thành công. Vận dụng phương pháp này, Giáo sư Hirakv thực hiện dạy tiếng Anh cho trẻ nhỏ thông qua trò chơi “diễn kịch”. Ông cho thiế kế một số đạo cụ, dạy các em nhỏ thay phiên đóng vai các nhân vật, các em nhỏ được hướng dẫn làm nhiều động tác và tư thế khác nhau, tất cả tên của đạo cụ, tên của các động tác, tư thế cũng như lời thoại của nhân vật đều được sử dụng bằng tiếng Anh. Thông qua trò chơi này, các em nhỏ đã tiếp thu tiếng Anh một cách dễ dàng và nhanh chóng hơn.

Trẻ hoạt động trong vui chơi, từ một góc độ khác nữa, điều này cũng cho thấy trẻ được biểu hiện và phát huy cao độ tính chủ động của mình. Giáo sư Hirakv cho rằng khi vui chơi, trẻ sẽ chủ động hoạt động, mà đối với học tập, “chủ động” là yếu tố vô cùng thiết yếu. Trẻ chỉ thực sự học được kiến thức nào đó khi có đầ đủ ý thức chủ động này.
Một số nhà tâm lý học chủ trương áp dụng hình thức “thưởng phạt” trong giáo dục – khi thành công sẽ có thưởng, khi làm hỏng sẽ chịu phạt. Họ khẳng định “thưởng phạt” là những động cơ thúc đẩy trẻ học tập. Tuy nhiên, thưởng phạt chỉ mang tính chất của những động cơ ngoại lực. Động cơ nội lực chỉ hình thành khi trẻ thật sự yêu thích, ham muốn được học tập, chủ động học tập – khi ấy, trẻ đạt được sự học tập theo đúng ý nghĩa chân chính của công việc này.
Theo Giáo sư Hirakv, phương thuốc hiệu nghiệm nhất chữa bệnh “chán học” của bọn trẻ là hãy biến học tập thành những trò chơi.

Nhiều bà mẹ thường than thở rằng con cái mình bây giờ chỉ thích máy tính, chẳng lúc nào thấy bọn trẻ thích học hành. Tuy nhiên, chúng ta hãy dừng lại đây để suy nghĩ xem vì sao bọn trẻ ham thích máy tính điện tử đến thế? Câu trả lời duy nhất là “bởi vì máy tính điện tử rất hấp dẫn và thú vị”. Như thế, nếu nhìn lại chuyện “chán học” thì bọn trẻ chán học cũng chỉ vì “học hành không hấp dẫn và thú vị”.

Ngày trước, từng có một hình phạt rất nặng nề, đó là bắt người phạm tôi phải bê một hòn đá từ chỗ này sang chỗ kia, sau đó lại bê hòn đá trở về chỗ cũ và cứ tiếp tục bê qua, bê lại như vậy. Mặc dù đây là một công việc đơn giản nhưng sự nặng nề của hình phạt ở chỗ “công việc rất nhàm chán và đơn điệu”. Trên thực tế, không ít phạm nhân chịu đựng hình phạt này sau mấy năm thì phát điên và tự sát. Dẫn câu chuyện này ra đây để chúng ta nhìn nhận xác đáng hơn một thực tế, con người nếu bị ép buộc làm những việc không có hứng thú thì tình cảnh thật tồi tệ. Những đứa trẻ “chán học” thường cảm thấy việc học như một cực hình, mỗi khi ngồi vào bàn học như là một lần chịu phạt. Với tâm lý như thế liệu pháp tốt nhất chỉ có thể là giúp đỡ con trẻ cảm thấy học tập là vui chơi, học tập giống như một trò chơi mà trẻ yêu thích nhất.

Muốn biến “học hành” thành “vui chơi” tức là phải vứt bỏ những thành kiến trước đó của trẻ đối với việc học. Điều trở ngại là trong bản chất của học tập cần nhờ vào nỗ lực để đạt mục tiêu thì vui chơi hoàn toàn ngược lại, thậm chí chỉ như một công việc vô ích. Thế nhưng, đối với rèn luyện trí não trẻ em, sự kết hợp giữa vui chơi và học tập là cần thiết. Chúng ta hãy giúp trẻ “vứt bỏ những vất vả nặng nhọc của việc học, thay bằng niềm vui và hứng khởi của sự vui chơi”.

Giáo sư Hirakv từng tiếp xúc với trường hợp sau: một em bé còn rất nhỏ nhưng có thể biết được hầu hết các loại xe hơi khác nhau và tất nhiên, những điều này không phải do bố mẹ em bé ép học. Nguyên nhân là em bé thường được bố mẹ cho đi chơi xa. Mỗi lần đi xa, ngồi trong ô tô, em bé thường nhấp nhỏm không yên vì chẳng có việc gì làm. Sau đó, mẹ em bé bày cho em bé cùng chơi trò “đoán” các nhãn mác xe và màu sắc của các loại xe đi trên đuờng. Chính trò chơi này đã giúp em bé thuộc làu các nhãn mác xe một cách hoàn toàn tự nhiên.

Trường hợp này đã mang lại nhiều gợi mở cho Giáo sư Hirakv trong vấn đề tạo hứng thú học tập cho trẻ em. Để trẻ em hứng thú học tập, chúng ta hãy để các em học tập thông qua vui chơi.
Chẳng hạn, người lớn đặt ra một câu đố cho trẻ: “Con thử đoán xem ngày mai đề kiểm tra sẽ làm gì?”. Tâm lý của trẻ nhỏ là cố gắng đoán cho bằng được lời giải đáp của những câu đố. Để đoán được “đề kiểm tra của ngày mai”, trẻ tất nhiên phải lật lại sách vở, học cho được phần này, phần kia. Vì luôn có tâm lý muốn đoán cho kỳ đúng câu đố, trẻ sẽ cố gắng ôn tập mọi kiến thức cần thiết (nếu như bỏ không học phần này hoặc phần khác, khả năng “đoán chệch đề kiểm tra” sẽ rất lớn!). Tâm lý này rất có hiệu quả đối với việc kích thích sự chăm chỉ và tinh thần trách nhiệm của trẻ với việc học tập, thành công đương nhiên có thể dễ dàng nhận ra.

Phân tích một cách cụ thể và tỷ mỉ hơn ý nghĩa của việc kết hợp học tập với vui chơi đối với trẻ nhỏ, Giáo sư Hirakv lập luận: các loại máy móc thông thường qua thời gian sử dụng sẽ bị bào mòn và ngày càng lạc hậu. Riêng trí não con người là “một loại máy đặc biệt”. Những nghiên cứu sinh lý học và tâm lý học đã khẳng định bộ máy trí não con người hầu như có khả năng sử dụng vô tận.

Một số nhà nghiên cứu còn chỉ ra rằng với khoảng 14 – 15 tỷ tế bào thần kinh trong não, mỗi người chúng ta gần như mới chỉ sử dụng được trên 5% trong một đời người, 95% còn lại nằm trong tình trạng “mê ngủ triền miên”. Vì thế, nếu chúng ta lo rằng khi tiếp thu quá nhiều lượng tri thức, bộ não của trẻ có thể đi tới quá tải và nổ tung thì sự sợ hãi, lo lắng này có lẽ không cần thiết. Ngược lại, điều chúng ta nên lo ngại chính là làm thế nào để con trẻ phát huy trí não một cách hiệu quả nhất, tránh tình trạng để bộ não đi vào hoạt động ngày càng xuống cấp.

Nếu người bệnh liệt giường chừng một tháng thì khả năng cử động chân tay chắc chắn bị giảm sút rất nhiều. Hoạt động của não bộ cũng theo nguyên lý này. Khi các tế bào não không được kích hoạt để vận động thì khả năng sa vào trì trệ, lão hóa là rất lớn. Đương nhiên, không thể áp dụng phương pháp “nhồi nhét kiến thức” đối với trẻ nhưng chúng ta cần tạo mọi điều kiện để trí não trẻ được hoạt động, rèn luyện trong tư thế thoải mái, lành mạnh. “Vui chơi” là một hình thức hiệu quả để thực hiện việc rèn luyện hoạt động não bộ của trẻ. Chỉ cần các em nhỏ vui chơi, bố mẹ hãy tìm cách “đưa nội dung giáo dục” vào trò chơi, biến những đồ chơi đơn thuần trở thành những công cụ học tập hữu ích. Như vậy, trẻ không những được vui chơi mà cũng dễ dàng, nhanh chóng nắm bắt nhiều kiến thức cần thiết.
Mọi người thường nói trẻ em cần “được học tập tốt và được vui chơi”. Quan điểm của Giáo sư Hirakv có ít nhiều khác biệt. Ông cho rằng đối với con trẻ, nên đặt “vui chơi” lên trước “học tập”, trẻ em cần “được vui chơi và được học tập tốt”! Bởi vì ngay trong “vui chơi” và thông qua “vui chơi”, trẻ em đã học tập, tiếp thu được rất nhiều tri thức, kiến thức. Với người lớn, “vui chơi” là một hành động tiêu khiển đơn thuần. Nhưng với trẻ em “vui chơi” và “học tập” có thể nói là hai công việc trên cùng một con đường.

Ngoài ra chúng ta không thể không lưu tâm đến một tác dụng khác của “vui chơi” đối với sự phát triển của trẻ nhỏ. “Vui chơi”, bên cạnh khả năng kích thích sự phát triển trí não còn rất có ích đối với sự phát triển thể lực. Ở nước Anh, khi kết thúc buổi học kỳ trước nghỉ cuối tuần hoặc một kỳ nghỉ lễ tết, giáo viên luôn nói với các học sinh của mình rằng: “Buổi học hôm nay kết thúc. Từ ngày mai, các em được nghỉ và được thoải mái vui chơi. Chúc các em một kỳ nghỉ vui vẻ!”. Các trẻ em của nước Anh thường không phải lo lắng việc học thêm hay ôn tập một khối lượng bài tập đồ sộ trong các ngày nghỉ – bởi vì, ngày nghỉ là ngày của nghỉ ngơi, ngày của vui chơi.

Không yêu cầu trẻ học thêm học ôn tập trong các ngày nghỉ, có thể nhiều phụ huynh e ngại trẻ sẽ nhanh chóng quên mất những kiến thức đã học. Tuy nhiên, trong nền giáo dục của các nước Âu – Mỹ, người ta có quan điểm khác hẳn. Họ cho rằng ngày nghỉ là cơ hội thay đổi môi trường hoạt động của đầu óc con trẻ, là cơ hội để trẻ “tiếp thu tri thức” theo một phương thức khác. Hơn nữa, những điêề trẻ cần được học không chỉ là những kiến thức sách vở trong nhà trường. Kỳ nghỉ là dịp tốt để trẻ phát triển các kiến thức của mình. Trí tuệ của trẻ đạt được sự phát triển toàn diện khi có sự kết hợp giữa sách vở, lý thuyết và thực tiễn. “Vui chơi” là nơi trẻ thể nghiệm nhiều thực tiến cuộc sống!

4. DẠY TRẺ PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY
Để trẻ thông minh, linh hoạt trí óc, chúng ta phải luôn luôn tạo điều kiện cho trẻ được tư duy, được tiếp cận với những vấn đề “cận động não”. Trí não nếu không hoạt động sẽ khô cứng như “một cố máy không được dầu bôi trơn”.
“Làm thế nào để tạo được các cơ hội tư duy cho con trẻ” là vấn đề mà Giáo sư Hirakv rất chú tâm nghiên cứu.

Theo Giáo sư Hirakv, bộ não của con người có khả năng rất tuyệt vời, nó mang bên trong mình “những tổ chức tư duy ở dạng nén”. Chẳng hạn, nếu như hôm nay ta gặp một công việc giống như việc hôm qua ta đã thực hiện rất hoàn hảo. Khi đó, không cần tới sự “động não”, chúng ta sẽ “theo mẫu” của cách làm ngày hôm qua để thực hiện lại công việc mà vẫn thu được kết quả thành công. Mô hình hoạt động của não bộ như vậy được coi là “một tổ chức tư duy dạng nén”. Với vô vàn hoạt động của cuộc sống hằng ngày, có thể thấy não bộ đã lưu giữ rất nhiều “tổ chức tư duy dạng nén” vô cùng hữu ích cho chúng ta. Nếu như không có các tổ chức tư duy dạng nén, với bất kỳ hoạt động nào (từ việc đánh răng, ăn cơm hay các hoạt động phức tạp hơn), chúng ta luôn phải tư duy từ điểm khởi đầu đến điểm kết thúc công việc, tình trạng như vậy chắc chắn sẽ quá tải đối với sức chịu đựng của não bộ. Nhờ các tổ chức tư duy dạng nén, chúng ta không mất quá nhiều tinh lực cho các hoạt động mang tính chất “thói quen”. Trí lực được tập trung để xử trí các sự việc mới, các tình huống lạ. Với cơ chế điều hòa như vậy, chúng ta mới có thể duy trì mọi hoạt động tư duy.
Tuy nhiên, cơ chế hình thành các tổ chức tư duy dạng nén cũng tiềm tàng một nguy hại, đó là căn bệnh “làm việc theo quán tính”. Khía cạnh cực đoan của kiểu hoạt động trí não theo thói quen – quán tính chính là đẩy tư duy đến chỗ khô cứng, bị cơ giới hóa và nhiều khả năng đưa tới sự lão hóa của não bộ.

Theo kết quả nghiên cứu tình hình phát triển trí lực của trẻ em từ giai đoạn đầu đến trưởng thành của một nhà tâm lý học người Mỹ, chúng ta được biết sự phát triển trí lực của trẻ từ 0 đến 4 tuổi mang tính chất quyết định nhất đối với cả thời kỳ phát triển trí lực đến năm 18 tuổi. Điều này có nghĩa là chất lượng phát triển trí lực tăng mạnh trong giai đoạn từ 0 đến 4 tuổi, sau đó duy trì tốc độ phát triển tăng dần đến đỉnh điểm ở tuổi 18. Nếu không đạt được bước phát triển mạnh trong thời kỳ từ 0 đến 4 tuổi thì đến năm 18 tuổi, tuy trẻ vẫn đạt được đỉnh điểm của sự phát triển mạnh mẽ của trí lực trong giai đoạn trẻ từ 0 đến 4 tuổi là hết sức cần thiết.

Biện pháp cơ bản lả tạo mọi điều kiện, bằng mọi phương cách đem đến cho trẻ những cơ hội tư duy.
Trước hết, bố mẹ cần giúp trẻ nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc tư duy, việc “tự động não”. Thay vì ép buộc trẻ học chữ, bố mẹ hãy đặt cho trẻ những mục tiêu cụ thểm chẳng hạn, khi biết chữ, con có thể tự đọc truyện, tự xem các tên chương trình trên truyền hình… Trẻ chỉ thực hiện công việc khi đã thực sự nhận thức được mục tiễn của việc cần làm.

Đối với những công việc đơn giản và quen thuộc người ta sẽ làm theo thói quen – khi đó phương pháp tư duy mang tính chất quán tính.Nhưng khi gặp một vấn đề chỉ dựa vào thói quen, lúc đó phương pháp tư duy cũng bị phá vỡ, chúng ta bắt buộc phải tìm kiếm một phương thức tư duy mới phù hợp và hiệu quả hơn. Thêm vào đó, khi tiến hành thực hiện các công việc đơn giản và theo thói quen, vì lượng trí lực bỏ ra… không lớn nên chúng ta sẽ không xác định được tất cả năng lực tư duy trí lực của bản thân.Ngược lại, đối mặt với một công việc phức tạp, để xử lý chúng ta buộc phải vận động toàn bộ năng lực tư duy, trí lực vốn có. Khi đó, chúng ta không những có điều kiện xác định tổng thể “tình hình năng lực trí lực bản thân” mà còn dễ dàng phát hiện những nhược điểm để có thể kịp thời bổ trợ.

Để hiểu rõ lý luận này, chúng ta theo dõi ví dụ sau:
Một lớp tiểu học đưa các em nhỏ tới siêu thị để “tập” mua hàng. Yêu cầu đặt ra là mỗi em chỉ được mang theo 50 yên Nhật. Các em phải tận dụng tối đa khả năng, dùng số tiền này mua thật nhiều đồ dùng cần thiết. Bình thường, với 50 yên Nhật, việc mua được một thanh kẹo sô – cô la cũng khó thực hiện. Khi được giao nhiệm vụ cầm theo 50 yên Nhật để mua hàng trong siêu thị, nhiều em nhỏ tỏ ra rất lúng túng. Thế nhưng trên thựctế, hầu hết các em nhỏ đều hoàn thành nhiệm vụ của mình sau mấy tiếng đồng hồ tự xoay sở trong siêu thị.

Ví dụ trên cho thấy những tình huống khó khăn có thể tạo ra động cơ thúc đẩy sự nhanh nhẹn, linh hoạt của tư duy, suy nghĩ.Vì vậy,Giáo sư Hirakv luôn có lời khuyên với các bậc cha mẹ, khi con cái gặp khó khăn, đừng vội “giơ tay gúp đỡ”. Đối với con trẻ, những hoàn cảnh khó khăn là cơ hội rèn luyện tư duy tuyệt vời.

Lời huyên này không có ý nghĩa đặt bố mẹ trở thành những “nhân vật bàng quan” với mọi hoạt động của con cái. Điều các ông bố bà mẹ cần ghi nhớ nhất là chỉ giúp đỡ con trẻ khi thực sự cần thiết. Chẳng hạn, trẻ bị ngã khi đang đi, các bà mẹ ở Mỹ hoặc Châu Âu chỉ lên tiếng động viện, khuyến khịc trẻ đứng dậy, sau đó im lặng nhìn bọn trẻ tự đứng dậy. Giáo sư Hirakv nhận xét, trong những trường hợp như thế, bố mẹ sẽ phạm sai lầm nếy lập tức chạy lại và đỡ con mình đứng dậy!

Về phương pháp phát triển năng lực tư duy trẻ em, Giáo sư Hirakv ủng hộ những đề xuất của Tiến sĩ Edward – một nhà giáo dục học, một triết gia thế kỷ XIX. Theo phương pháp của Tiến sĩ Edeward, quá trình dạy trẻ nắm bắt tên gọi của các đồ vật có thể bao gồm ba giai đoạn.

Chẳng hạn, ban đầu đưa cho trẻ xem mấy loại bút như bút máy, bút bi và bút chì, chúng ta chỉ vào chiếc bút máy và nói với trẻ: “Đây là bút máy”. Bước tiếp theo, chúng ta đặt trước mặt trẻ cả ba loại bút và đặt câu hỏi: “Đâu là bút máy?” và để trẻ tự nhặt ra đúng chiếc bút máy. Bước cuối cùng là cầm bút máy lên và hỏi trẻ: “Đây là cái gì?”. Với việc đưa ra các dẫn dắt theo thứ tự “đây là…”, ” cái nào là…”, ” Cái này là gì” như trên được gọi là phương pháp rèn luyện năng lực tư duy “ba giai đoạn” đối với trẻ em.

Một số người có hỏi Giáo sư Hirakv về vấn đề đến lứa tuổi nào thì có thể dạy trẻ học chữ và làm toán. Họ thắc mắc với ông như sau: “Chúng tôi thấy đứa trẻ bên hàng xóm mới bốn tuổi đã có thể nhớ được mặt chữ cái, thé mà không hiểu sao con tôi cũng bằng tuổi ấy mà không được như thế? Liệu có phải trí tuệ của con tôi có năng lực thấp hay không?”. Nghe những thắc mắc này, Giáo sư Hirakv chợt nhận ra rằng rất nhiều ông bố bà mẹ cũng không thật hiểu biết về con cái mình.

Tốc độ phát triển trí tuệ của mỗi em nhỏ không hoàn toàn giống nhau. Có em bé độ hơn một tuổi nhưng nói năng khá trôi chảy, trong khi em nhỏ khác đến năm tuổi vãn chưa nói được rành rọt. Sự khácbiệt này là do tốc độ phát triển năng lực nói nhanh hay chậm ở từng em nhỏ. Như vậy, trong việc giáo dục trẻ em, điều đáng chú ý ban đầu là vấn đề tốc độ phát triển của các năng lực (không phải ở vấn đề trí tuệ của mỗi đứa trẻ có phẩm chất thông minh hay không) Đối với con nhỏ, bố mẹ nên hiểu rằng không có cái gọi là “sự thích hợp về thời gian” bắt đầu dạy cho con cái học hành một kiến thức nào đó. Điều quan trọng là trẻ có hứng thú hay không với kiến thức được học. Khi trẻ yêu thích và hứng thú, đó là lúc bắt đầu tốt nhất của sự học tập!

5. TÂM TÌNH TRÒ CHUYỆN CÙNG CON CÁI
Các phóng viên khi tiến hành những cuộc điều tra, phỏng vấn thường có một bí quyết là không sử dụng các câu hỏi có đáp án trả lời “có” hoặc “không” để chất vấn đối phương.Chẳng hạn: “Bạn có phải là sinh viên của trường Đại học X không? ” “Có”, “Bạn có theo học hệ chính quy không? ” ” Có”, “Bạn có theo học chính quy không?” “Có”…Lý do là ví nếu thựchiện cách hỏi như vậy, người phóng viên ngoài “không”hoặc “có” sẽ chẳng lấy được thêm nhiều thông tin khác. Tình hình sẽ thay đổi nếu chúng ta sử dụng cách hỏi, chẳng hạn: “Bạn thấy trường Đại học X thế nào”. Đứng trước câu hỏi này,người trả lời nhất định phải thực hiện một quá trình huy động thông tin, kiến thức để đưa ra đáp án (thay vì việc chỉ cần phản xạ bằng “không” hoặc “có”). Vì nguyễn do này, phỏng vấn đòi hỏi cả một nghệ thuật. NGười “khéo kéo” là người biết đưa ra những câu hỏi mang tính chất dẫn dắt, những câu hỏi mà mọi người không thể dùng đưa ra một đáp án chính xác như nhau.

Qua tìm hiểu, Giáo sư Hirakv phát hiện ra một thực tế là các ông bố bà mẹ trong lúc trò chuyện với con cái thường hạn chế phạm vi phát ngôn của chính con cái mình. Ví dụ như nói: “Đằng kia có hòm thư không”. Cách hỏi tư duy của trẻ. Chúng ta nên đưa cho trẻ những câu hỏi mang nhiều tính chất gợi mở hơn, ví dụ như: ” Con thấy nên thế nào…?” ” Vì sao…?” “Bao giờ thì…?” Đứng trước những câu hỏi mở, trẻ có điều kiện luyện tập năng lực tư duy cũng như khả năng diễn đạt của mình.

Khi trò chuyện cùng con cái, người lớn không chỉ cần biết đặt câu hỏi mà còn phải lắng nghe và giải đáp mọi thắc mắc của con.

Một số người cho rằng hoh sẽ mất “cái uy” của người lớn nếu phải cuốn vào những câu chuyện của bọn trẻ. Đây là một nhìn nhận cần kịp thời thay đổi. Đặc biệt khi con trẻ đưa ra những câu hỏi “ngớ ngẩn”, người lớn chúng ta cũng không nên lớn tiếng cười bọn trẻ. Làm như vậy, trẻ sẽ dẽ hình thành cảm giác e dè, luôn sợ bị người khác chế nhạo.
Một lần khi ở Mỹ,Giáo sư Hirakv đã gặp câu chuyện sau đây trên đường. Một bé trai chừng bốn, năm tuổi đang cố kéo một người đàn ông lớn tuổi, râu tóc loà xoà lại và hỏi:
” Ông ơi, sao ông cứ đi chân đất vậy ạ? Ông không bị đau chân à?”
Người đàn ông dừng lại nhìn cậu bé con một lúc, sau đó từ từ nói với thằng bé như với một người lớn:
“Đây là triết học của ta. Ta không muốn đi giày vì ta muốn chạm bàn chân trên mặt đất”.
Nghe lời giải thích này, cậu bé dường như hiểu ta nhiều phần lắm, nó nói:
“À, thì ra đó là vì triết học!”

Rõ ràng là cuối cùng cậu bé này đã rất hiểu lời giải thích về “triết học” của người đàn ông lớn tuổi lia. Điều mà Giáo sư Hirakv muốn nhấn mạnh khi kể câu chuyện này là nếu chúng ta nghiêm túc trả lời bọn trẻ, bọn trẻ sẽ rất tự hào vì nhận thấy giá trị của những câu hỏi do chúng đặt ra.Ngược lại, nếu người lớn chỉ trả lời qua quýt cho xong chuyện, điều này lâu dần sẽ làm cho trẻ quen với sự bưng bít, dẫn đến tâm lý ngại thắc mắc, ngại hỏi.
Giáo sư Hirakv cũng lưu ý các bậc phụ huynh về cách giải đáp những thắc mắc của trẻ. Bố mẹ không nên với chuyện bản thân biết thì giảng giải chi li, với chuyện bản thân không biết thì thoái thác như kiểu “chuyện đó à, để sau bố sẽ nói cho conbiết” hoặc “Đại khái chuyện là vậy vậy thôi…”

Ông cho rằng ngay cả với những vấn đề bố mẹ rất am hiểu, bốmẹ cũng không nên giảng giải tường tận đến chi li trẻ. Cách làm như vậy là lấy mất cơ hội tìm hiểu, khám phá và tư duy độc lập của trẻ.

Chỉ cần ba tuổi, trẻ có thể đặt cả dãy những câu hỏi “tại sao”,”vì sao”.Điều này chứng tỏ trẻ bắt đầu có biểu hiện của tinh thần ham hiểu biết,muốn khám phá.Khi con cái đến tuổi này, bố mẹ cần hết sức chú ý cách trả lời những thắc mắc của con cái, không những không thể trả lời cẩu thả mà phải hết sức thận trọng và phù hợp với trình độ nhận biết của trẻ. Ngoài ra,bố mẹ cũng cần tránh việc nguỵ biện, nói dối khi giải thích các thắc mắc con nêu ra. Giải đáp một cách khoa học, có logic, mục đích chính là để con nhận thức đúng sự vật. Tuy nhiên, bố mẹ cũng không nên đưa ra những lời giải đáp “chắc chắn như đinh đóng cột” – Điều này là chưa cần thiết với trẻ nhỏ.

Trong khi giải đáp,bố mẹ hãy cố gắng tạo ta những tình huống mang tính chất đối thoại bằng những lời gợi ý “nếu như”, tránh tình trạng bố mẹ thao thao bất tuyệt, con cái im lìm như ngồi nghe báo cáo.

Chẳng hạn, để giải thích cho con câu hỏi “Vì sao người ta phải đi ngủ vào buổi đêm”, bố mẹ có thể phỏng vấn bằng cách hỏi: “Nếu như con không đi ngủ thì sẽ ra sao”. Lúc này, trẻ sẽ phải tự tư duy để giải đáp được câu hỏi “vì sao người ta cần phải đi ngủ”. Bằng những câu hỏi mang tính chất “bắc cầu” của bố mẹ, trẻ có thể nhận thức dần dần vấn đề, chẳng hạn, “Nếu người ta không đi ngủ thì sẽ buồn ngủ”. “nếu không đi ngủ thì sẽ rất mệt”, “”nếu không đi ngủ thì ban ngày sẽ không dậy được…

6. GIẢM NHẸ GÁNH NẶNG TÂM LÝ CHO CON
Khi con trẻ cảm thấy ngột ngạt và nặng bề vì sức ép của học tập và thi cử, bố mẹ hãy là những người san sẻ và giảm bớt những gánh nặng này cho con cái.

Trong tình huống này, Giáo sư Hirakv hy vọng các bậc phụ huynh có thể tham khảo một số ý kiến sau đây.
Thông thường, khi thấy con cái chìm ngập trong bài vở và thi cử, bố mẹ hoặc nói: “Con cố gắng lên, rồi cũng sẽ học xong” hoặc “Bớt xem ti vi,bớt đọc truyện tranh đi”.. Theo Giáo sư Hirakv, bố mẹ hơn thì việc đầu tiên hãy biết tôn trọng những biểu hiện tâm lý của con.

Một số trẻ em khi đi học luôn bị áp lực vì”Thành tích học tập”, đặc biệt khi đứng trước những kỳ thi. Ví dụ như trẻ phải giải quyết một lượng khoảng 300 bài tập trong vòng một tháng hoặc chỉ còn 3 ngày nữa là bắt đầu kỳ thi. Vì sức ép thời gian, trẻ càm thấy nặng nề và chắc là chẳng có đủ bình tĩnh để cố gắng thực hiện sự ôn tập.
Trong tình huống này, người lớn hãy cố gắng thay đổi tâm lý của con trẻ. Trước mặt bọn trẻ, người lớn thay vì “hò hét” chúng ngồi vào bàn làm bài tập, hãy cố gắng thay đổi cách nói, chẳng hạn: “Mỗi ngày con chỉ làm 10 bài là sẽ xong thôi!”hoặc “Con còn những 72 tiếng đồng hồ hơn nữa cho việc ôn tập cơ!” Những điều này mặc dù vẫn là nói tới sự thực của khối lượng công việc bọn trẻ phải giải quyết nhưng lại có thể thay đổi ít nhiều cảm giác của bọn trẻ, từ việc nhận thấy “nhiều bài tập,ít thời gian” sang “ít bài tập hơn, nhiều thời gian hơn “.

Biện pháp như vật được Giáo sư Hirakv gọi là “hoán đổi tâm lý”.

Theo tự thuật của mình, cha của Giáo sư Hirakv là một người luôn luôn bận rộn. Vì thế, hai cha con ông thường ít có thời gian để gặp nhau. Tuy nhiên, đôi lúc họ cũng có những cuộc trò chuyện cùng nhau. Mỗi lần như vậy, người cha thường nói: “Bố biết con đang rất cố gắng, nhưng con cũng không thể ví thế mà huỷ hoại chính sức khoẻ của bản thân chứ!.” Nghe lời nhắc nhở của cha, ông Hirakv cảm thấy thực tế là mình đã chưa cố gắng làm việc hết sức đến như thế. Lời nói đầy tin tưởng của người cha có sức nặng đôi với ông, đó là động lực thôi thúc ông phải luôn cố gắng làm việc nhiều hơn nữa.

Giáo sư Hirakv nhận thấy nhiều bố mẹ lại có thái độ dường như ngược lại với tình huống trên. Cho dù trẻ đã rất nỗ lực nhưng bố mẹ chúng thường không mấy công nhận những cố gắng này. Không ít bố mẹ không những có thói quen quản lý con cái một cách gắt gao mà còn thường xuyên đặt ra những mệnh lệnh cho con trẻ. Nhìn từ góc độ những cuộc trò chuyện tâm tình giữa bốn mẹ với con cái, áp đặt mệnh lệnh là một hành vi phiến diện của bố mẹ và với điều đó, sự tôn trọng nhân cách, tính tự chủ của trẻ đã bị phủ định. Hoàn cảnh này là nguy cơ dẫn tới tư tưởng chống đối hay nghiêm trọng hơn là những hành vi phản kháng từ phía con trẻ. Chính vì vậy, theo Giáo sư Hirakv, các bậc phụ huynh nên chú ý hơn tới cách đưa ra yêu cầu với bọn trẻ, chẳng hạn có thể nói: “Con thử xem việc này có được không? Như thế nào?”. Điều những người làm bố làm mẹ hãy ghi nhớ là thay vì ra mệnh lệnh cho con cái, chúng ta hãy sử dụng một biện pháp hiệu quả hơn – đó là đưa ra những đề nghị. Những đề nghị của bố mẹ sẽ tốt hơn với việc bồi dưỡng năng lực tư duy, phẩm chất phán đoán của trẻ trong cuộc sống!

Đối với việc bồi dưỡng tư duy, tinh thần tự chủ của trẻ, người lớn chúng ta cũng cần cân nhắc nội dung của vấn đề cần đặt ra cho trẻ. Chúng ta hãy ghi nhớ – đừng nên đặt vấn đề với những câu nói có thể trở thành “tảng đá nặng” đối với tâm lý con trẻ ngay từ phút đầu của cuộc trò chuyện! Chẳng hạn, khi bạn thấy con mình đang mải chơi, đừng vội nói với trẻ rằng: “Con có thể cho bố (mẹ) biết con định học bài hay chơi đây?” Tại sao bạn không thể mở đầu với lời nói: “Hôm nay, mấy giờ con đi học bài?”

Cổ nhân thường nói “dục tốc bất đạt” – việc gì ta cần nhanh chóng thì khó thành công. Để giúp con có niềm say mê hứng thú với việc học tập, chúng ta cũng cần thời gian và sự kiên trì. Khi con bạn chán học, ngại học, bạn đừng nói với trẻ rằng: “Con đi học cho mẹ nhờ!…”. Những lời nói như thế chỉ làm trẻ càng thêm chán học và càng thêm nặng nề đối với sự học hành mà thôi! Trong trường hợp này, cách thức tốt hơn là chúng ta hãy đừng sử dụng những biện pháp trực tiếp để “ép” con cái học tập. Gián tiếp nhắc nhở, cùng với thời gian và sự kiên nhẫn của bố mẹ, đó mới là liệu pháp đúng đắn hơn cho những đứa trẻ đang chán học và ngại học.

7. TRÁNH ĐỂ TRẺ CHỊU ÁP LỰC VỀ THÀNH TÍCH HỌC TẬP
Những đứa trẻ có những suy nghĩ về việc bản thân học kém các bạn khác thường đi vào tâm lý ngày càng chán học, ngại học. Đi vào phân tích kiểu tâm lý này, Giáo sư Hirakv nhận thấy nguyên do rất lớn nằm ở những tác động từ phía bố mẹ.

Một số trẻ nhỏ đột nhiên có hiện tượng sa sút trong học tập. Ở thời điểm này, nếu gặp phải sự trách mắng dù ít hay nhiều từ phía thầy cô giáo hoặc bố mẹ thì kết quả đối với trẻ chỉ là sự tồn thương ngày càng nghiêm trọng về tinh thần tích cực đối với học tập.

Khi trẻ đã ở vào hoàn cảnh này, không chỉ cảm thấy mất tự tin ở chính bản thân mà đối với cha mẹ, thầy cô giáo, trẻ hầu như cũng mất mát những chỗ dựa tinh thần. Lúc này, trách móc hay mắc phạt đối với trẻ đều chỉ có tác dụng ngược lại mà thôi! Đây là lúc trẻ gặp khó khăn, tại sao bố mẹ không trở thành những người giúp đỡ con trẻ? Những người làm bố mẹ hãy động viên con cái vượt qua sự buồn rầu về tình hình học tập trước mắt, phải giữ gìn và khuyến khích lòng tự tin của bản thân con trẻ, hãy nói với con:
“Bố mẹ rất tin con, chỉ cần con cố gắng, con sẽ thành công hơn!”
Đối với con trẻ, cho dù là học sinh học giỏi, luôn đạt những thành tích cao thì điều này cũng không có nghĩa là trẻ sẽ không bao giờ thất bại. Bố mẹ cần phải hiểu rõ điều này để xác định một thái độ hợp lý với con cái, không chỉ lúc con thành công mà ngay cả khi con thất bại.

Chúng ta cần nhìn nhận một sự thực rằng bị điểm kém đôố với bản thân trẻ em đã là một điều không vui. Nếu khi đó, trẻ phải gánh chịu những lời chì chiết từ phía bố mẹ hoặc thầy cô giáo thì những sức ép này có nằm trong khả năng chịu đựng tâm lý của trẻ hay không?

Những gánh gặng tâm lý này nếu cứ chất chồng và tích tụ sẽ đẩy con trẻ đến tuyệt vọng với tương lai, không tin tưởng vào chính mình và tất cả. Để tránh cho con cái những tâm lý nặng nề không đáng có này, trách nhiệm lớn thuộc về bố mẹ.

Ví dụ, khi bố mẹ nhận dược thông báo về tình trạng học tập sa sút của con cái, theo Giáo sư Hirakv, cần ứng xử như thế nào luôn là vấn đề khó khăn với phần đông những người làm bố làm mẹ.
Giáo sư Kirakv đưa ra một số lời khuyên với tình huống này:
Trước hết, bố mẹ cần xác định thái độ nhìn nhận thích hợp với thành tích học tập của con cái. Thông thường, khi thành tích học tập của con đạt xuất sắc chúng ta vô cùng vui vẻ, ngược lại, chúng ta buồn bã và lo âu nếu con cái học tập sa sút. Giáo sư Hirakv cho rằng với thành tích học tập của con cái, bố mẹ nên hiểu rằng con cái cũng có lúc thành công, cũng có khi thất . Vì thế, ngay cả khi thành tích học tập của con không tốt, chúng ta cũng không nên biểu hiện thái độ buồn bã hay trách móc con trẻ. Điều này để tránh cho con cái bạn không sa vào tâm lý mất tự tin trong cuộc sống cũng như tinh thần tích cực đối với học tập.

Khi con cái bạn bị điểm kém hoặc thi trượt, thay vì trách móc, bạn hãy cho con trẻ một cơ hội. Tại sao bạn không thể nói với con rằng: “Ai cũng có lần phải thất bại, và thất bại không có nghĩa là chấm hết tất cả”?…
Đối với những đứa trẻ chán học, vấn đề thành tích học tập lại càng trở thành gánh nặng hơn. Bởi vì, khi trẻ đã chán học thì chúng sẽ không học, và tất nhiên kéo theo đó là tình hình kết quả học tập ngày càng sa sút. Không những vậy, khi thành tích học tập sa sút, điều trẻ tiếp tục gánh chịu là sự tức giận của bố mẹ, sự trách mắng của thầy cô giáo. Những gánh nặng này làm trẻ luôn luôn bất ổn, càng lúc càng không tự tin và không có tâm sức để làm bất cứ công việc nào. Kết quả cuối cùng lại vẫn là tình trạng học tập chỉ càng thêm tồi tệ. Theo Giáo sư Hirakv, đây có thể được gọi là “một vòng tuần hoàn ác tính” điển hình ở những trẻ em chán học.

Khi trẻ đứng ở giữa tâm lý muốn học hay không muốn học, những “bình luận” của người lớn đối với bảng điểm của trẻ trở thành một áp lực lớn. Bố mẹ hãy cho con cái mình cơ hội để loại bỏ những áp lực này. Giáo sư Hirakv cho rằng nếu như chúng ta để trẻ thoát khỏi tình trạng tâm lý nặng nề mỗi khi phải nộp bảng điểm cho bố mẹ xem, nếu như chúng ta không cố xem bằng được bảng điểm của trẻ khi trẻ không chủ động đưa cho bố mẹ xem thì chắc chắn trẻ sẽ tự nguyện để chúng ta xem bảng điểm.

Theo sự phân tích của Giáo sư Hirakv, khi “khen” hoặc “chê” một sự việc nào đó, người ta chắc chắn phải có một tiêu chuẩn để đối sánh. Khi bố mẹ “chê” thành tích học tập của con là “tồi tệ” thì căn cứ ở đâu nếu không phải vẫn thường là đi so sánh với thành tích học tập của những đứa trẻ khác cùng lớp. Thế nhưng cùng một thành tích học tập này, có thể khi con bạn đứng ở lớp này là “kém” nhưng đứng ở một lớp học khác lại chưa hẳn bị coi là “kém”. Đây là một thực tế.

Hơn nữa, nếu lần này con bạn đạt điểm tối đa, nhưng lần kiểm tra sau, rất có thể trẻ sẽ không đạt được điểm tối đa như trước. Khi đó, nếu so với lần trước, có phải chúng ta sẽ nhìn nhận rằng trẻ đã học kém đi chăng?
Vì những điều này, theo Giáo sư Hirakv, khi con cái bị điểm kém, bố mẹ không nên trách mắng, chì chiết con cái, cũng không nên so sánh con với những đứa trẻ khác. Hơn nữa, bố mẹ cần tìm cách động viên, khích lệ con cái – “Đúng là điểm lần này của con không được tốt lắm, nhưng bố (mẹ) thấy rằng so với trước lúc kiểm tra, kiến thức của con đã nâng cao lên rất nhiều”… Trong những tình huống này, bố mẹ hãy nói lời cổ vũ con tiếp tục cố gắng, hãy để con hiểu rằng nó còn rất nhiều cơ hội khác nữa và điều cần làm nhất là phải nỗ lực hơn. Bạn đừng làm trẻ càng thêm mất tinh thần với việc học tập khi chúng bị điểm kém. Hãy giúp đỡ trẻ có con mắt nhìn về phía trước thay vì sự dằn vặt bởi một điểm kém, một kỳ thi trượt.

Một hiện tượng tâm lý khác thường có ở không ít trẻ em là suy nghĩ “cho dù mình có cố gắng thế nào đi nữa, mình cũng không thể học tốt hơn”. Nguyên do chủ yếu là vì các em thiếu tự tin vào chính bản thân. Lúc này, chúng ta cần cố gắng nói chuyện với trẻ, giúp trẻ nhận ra bản thân không phải hoàn toàn không có năng lực. Hãy để trẻ tin tưởng vào năng lực bản thân, đồng thời phải thể hiện cho trẻ biết rằng chúng ta cũng là những người luôn luôn tin tưởng ở những năng lực đó của trẻ.

8. HỌC TẬP TỪ NHỮNG HOẠT ĐỘNG ĐỜI THƯỜNG
Con trẻ cần được học tập ngay từ những hoạt động đời thường. Vì vậy, trong việc giảng dạy ở nhà trường, các thầy cô giáo cần hết sức lưu tâm tới vấn đề gắn kiến thức sách vở với thực tiễn.

Một giáo viên tiểu học khi giảng giải cho các học sinh về sản xuất dây chuyền trong nhà máy, đã cho phép các em được tự do đặt câu hỏi. Thầy giáo này cho biết anh đã gặp những câu hỏi hết sức bất ngờ, chẳng hạn như:
“Thưa thầy, khi người ta tiến hành sản xuất dây chuyền, nếu một người trong đó muốn đi vệ sinh thì sẽ ra sao ạ?”…
Đây là một thầy giáo rất coi trọng vấn đề thực tiễn trong giảng dạy, vì vây, anh đã không trả lời một cách lấp liếm trước những câu hỏi này. Anh bèn ghi chép lại toàn bộ những câu hỏi của các em học sinh trong lớp, viết thư gửi đến nhà máy sản xuất theo dây chuyền nhờ giải đáp. Nhà máy sau khi nhận được thư đã rất vui vẻ hồi đáp với những lời giải đáp cặn kẽ, tỉ mỉ.

Để giảng cho các học sinh về công việc của nhân viên ở bến xe, một thầy giáo khác tự mình đi mượn về một số dụng cụ, sau đó bố trí lớp học giống như một bến xe. Tiết học ngày hôm đó, các học sinh cảm thấy vô cùng hứng thú, nhiều em nhỏ quyết định sau buổi học sẽ ra bến xe để quan sát, tìm hiểu kỹ hơn về công việc của những nhân viên ở đây.
Nhờ phương pháp giảng dạy mang tính thiết thực cao, các học sinh đã nhìn nhận được giá trị thực tiễn và ý nghĩa của nhiều hoạt động đời sống mà các em bình thường, thậm chí khong để ý, quan tâm đến.

Giáo dục trong gia đình cũng cần lưu tâm đến ý nghĩa thực tiễn. Hãy để con trẻ học tập ngay từ đời sống thường ngày! Chỉ cần bố mẹ chú ý kết hợp giữa thực tiễn với việc học tập của con thì dù trong những hoạt động rất nhỏ cũng có thể thu được hiệu quả cao. Đưa học tập gắn với thực tiễn không những có thể tạo cho trẻ nhiều cơ hội học tập hơn mà đối với những trẻ em chán học, đây cũng là một liệu pháp hữu ích.

Ví dụ, chúng ta có thể để trẻ tự hoạch định kế hoạch đi du lịch cho cả nhà, với sự hướng dẫn khéo léo của bố mẹ, chắc chắn trẻ sẽ tiếp thu được không ít kiến thức về địa lý. Chuẩn bị lên đuờng, bố mẹ hãy đề nghị trẻ đóng vai làm “hướng dẫn viên du lịch” để giới thiệu cho cả nhà nghe về nơi sắp đến nghỉ.

Trong suốt chuyến đi, bố mẹ có thể trao đôi trẻ nhiệm vụ “một người trưởng đoàn”. Với tính cách ưa hoạt động của con trẻ, trẻ nhất định sẽ hứng thú và cố gắng làm cho ra “một người trưởng đoàn” thực thụ. Điều đó có nghĩa là trẻ không chỉ vận dụng những kiến thức đã chuẩn bị từ nhà để giới thiệu điểm này, điểm kia về noiư nghỉ, mà còn phải luôn luôn quan sát, để ý mọi hoạt động liên quan đến hành trình, thậm chí sẽ còn rất nhớ lịch trình của chuyến đi!
Một nhà văn kể rằng nhiều năng lực của ông bây giờ là kết quả được bồi dưỡng từ ngày còn nhỏ. Khi mới học tiểu học, ông thường cùng bố cắt những mẩu báo hay để giữ lại. Đây cũng chính là điều kiện để ông sớm có thói quen quan tâm đến những vấn đề xã hội. Theo lời kể của ông, ngồi cắt những mẩu báo kông chỉ là một trò chơi thú vị mà còn được rèn luyện nhiều về khả năng đọc. Hơn nữa, việc làm này cho ông hiểu rằng người bố của mình vẫn không ngưừnghọc tập, không ngừng tích luỹ, đó thật sự là tấm gương sáng có tác động mạnh mẽ đối với ông ngay từ những ngày bé thơ.
Trường hợp trên đây chỉ ra cho chúng ta một phương pháp dạy trẻ khá hiệu quả – “bố mẹ hãy làm gương cho con cái”. Đối với con trẻ, những lời giáo huấn dù sâu sắc đến đâu cũng không có ảnh hưởng lớn bằng những tác động trực quan. Khi nhìn và cảm nhận thấy người cha, người mẹ của mình vẫn không ngừng cố gắng học tập, tích luỹ, một cách tự nhiên theo kiểu “cảm nhiễm”, trẻ sẽ hình thành ý thức dối với học tập cũng như tinh thần luôn luôn bền bỉ, phấn đấu trong học tập. Đây cũng là một cách thức bố mẹ giáo dục con thông qua thực tiễn. Theo Giáo sư Hirakv, phương pháp này rất thích hợp với những đứa trẻ còn đang chán học, ngại học.

Quan sát với Giáo sư Hirakv cũng cho biết một số phụ huynh cũng vì mong muốn cho con cái hiểu biét hơn đã giành nhiều thời gian đưa con đi thăm quan bảo tàng. Thế nhưng, nhiều trẻ em vẫn không tỏ ra mấy hứng thú khi đến bảo tàng. Lý do là vì nhiều bố mẹ nghĩ đơn giản rằng chỉ cần cho con đến bảo tàng là chúng sẽ hiểu biết nhiều hơn. Để con cái thực sự được đi tham quan bảo tàng, bố mẹ vừa phải là người hướng dẫn vừa phải là người khách đi cùng xem với con. Nếu như bố mẹ đưa con đến bảo tàng rồi bảo bọn trẻ tự đi xem thì trẻ cũng sẽ chẳng còn mấy hứng thú. Vì vậy, hãy thật sự cùng con đi thăm quan bảo tàng, chính bố mẹ hãy cho con trẻ thấy rằng bảo tàng đúng là rất thú vị và có ý nghĩa.

Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta vẫn thường gặp tình huống, nếu cùng làm thì mọi người rất hào hứng, ngược lại, chỉ một mình thì thậm chí không muốn động chận, động tay. Cũng như vậy, đối với con trẻ, nhiều khả năng chúng có suy nghĩ rằng tại sao cả nhà chỉ mỗi mình nó phải học bài. Đây cũng là một kiểu suy nghĩ dẫn đến tâm lý nản học ở con trẻ, chúng ta có thể lợi dụng phương pháp “tập thể cùng làm”. Chẳng hạn, con bạn chán học, bạn hãy đề nghị cả nhà mỗi ngày cùng nhau dành 10 phút cho việc làm bài tập. Nếu cả nhà cùng làm, trẻ sẽ không có lý do nào để từ chối, thậm chí sẽ cảm thấy rất vui vẻ vì có cả bố và mẹ cùng làm với mình.

Ngoài ra, các nội dung con trẻ có thể học được từ đời sống hằng ngày đương nhiên không chỉ bó hẹp trong những kiến thức sách vở. Bạn hãy để trẻ làm một số công việc trong nhà như quét nhà, lau nhà, gấp quần áo… Những hoạt động này sẽ rèn luyện cho trẻ nhiều kỹ năng và những đức tính cần thiết trong cuộc sống. Đây không đơn thuần chỉ là con cái giúp đỡ cha mẹ mà còn là một cơ hội rèn luyện rất tốt đối với trẻ. Khi tham gia làm những công việc gia đình, trẻ sẽ dần biết cách thu xếp kế hoạch, cân đối giờ giấc giữa việc nhà và việc học. Ngoài ra, công việc này cũng giúp trẻ hình thành tinh thần trách nhiệm với gia đình cũng như tính kiên trì, nhẫn nại – bởi vì, đây là công việc được phân công trong gia đình và đương nhiên không thể không hoàn thành.

Ở một số gia đình, bố mẹ thường không để con cái giúp đỡ công việc nhà với lý do “Nó vụng về lắm, nó không làm đuợc đâu!”. Hoặc khi con cái tỏ ý muốn giúp đỡ, bố mẹ lại cho rằng bọn trẻ giúp đỡ chỉ càng thêm “quẩn chân vướng tay”… những cách nhìn nhận như thế thật rất nguy hại. Bởi vì, đó không còn là vấn đề có để trẻ làm việc nhà hay không mà đã vô tính tổn hại tới lòng tự tin, tinh thần tự chủ của con trẻ.

9. NGHỆ THUẬT ĐỘNG VIÊN CON CÁI
Để động viên, khích lệ người khác trong công việc, người Nhật Bản thường có thói quen sử dụng những khẩu hiệu kiểu như:

“Cố lên!” hoặc “Chúng ta hãy làm việc tốt nhé!”

Chẳng hạn, Giám đốc thường nói với nhân viên của mình:

“Tôi hy vọng các bạn sẽ cùng nhau cố gắng làm tốt công việc! Cùng cố gắng nhé!”…

Theo Giáo sư Hirakv, những lời động viên, khích lệ như vậy không có tác dụng nhiều lắm cho hiệu quả, năng suất làm việc. Tại sao thay vì nói những lời động viên viên suông, người ta không thử tìm cách đề cập thẳng đến công việc và mục đích cụ thể cần thực hiện? Khi đã rõ ràng về mục đích cũng như công việc, chắc chắn chúng ta sẽ phấn đấu một cách hiệu quả, có định hướng hơn.

Để động viên, khuyến khích con cái, bố mẹ cần nắm rõ từng hoàn cảnh cụ thể. Khi con đứng trước một kỳ thi quan trọng, bố mẹ không nên chỉ dừng ở việc nói mấy lời đại loại như: “Học đi con, con phải cố gắng mà học đi chứ!” Bố mẹ nên nhìn nhận sâu sắc hơn về tâm lý, tinh thần của con trẻ. Căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể, bố mẹ hãy giúp đỡ con hiểu rõ về mục tiêu cần phấn đấu trước mắt. Bên cạnh lời nói động viên, điều quan trọng là đề cập trực tiếp với con mục tiêu và công việc cụ thể. Như vậy, bạn đã định hướng và đặt nền tảng quan trọng cho những phấn đấu, nỗ lực của con cái mình.

Một phương diện khác của việc động viên, khuyến khích con cái là thái độ của cha mẹ khi con bị điểm kém, thi trượt hoặc gặp một thất bại nào đó trong cuộc sống. Trong trường hợp này, nguyên tắc thứ nhất là bố mẹ đừng bao giờ trách móc hoặc có những hành động gây thêm áp lực cho con và ngược lại, bố mẹ cũng không nên chỉ dừng ở việc nói con hãy cố gắng ở những lần sau.

Khi con cái gặp thất bại, bố mẹ hãy bình tĩnh và kiên nhẫn động viên con. Bạn có thể dùng những lời khích lệi để át dần tâm trạng rầu rĩ của con trẻ. Chẳng hạn:

“Bố nghĩ ai cũng có một đôi lần thất bại”.

“Con cũng không nền vì một lần thất bại mà cho rằng tất cả đã hết”.

“Mẹ nghĩ là chắc chắn con sẽ làm tốt hơn”.

“Không sao cả! Việc gì rồi cũng sẽ qua!”.

Những lời động viên của bố mẹ trong lúc này có tác động rất lớn.

Nó là cơ sở củng cố lòng tin, ý chí tiến thủ của con trẻ. Nó giúp trẻ lấy lại cân bằng tinh thần, dần rủ bỏ gánh nặng tâmk lý về thất bại vừa qua.

Tiếp sau những lời động viên an ủi, việc quan trọng hơn là bố mẹ phải nói chuyện thẳng thắn với con, giúp con phân tích một cách cụ thể nguyên nhân của thất bại. Chẳng hạn, một em bé có thành tích học tập khá tốt bõng chỉ đạt được 50 điểm (tương đương với điểm 5 ở nước ta) ở một bài kiểm tra.

Người lớn có thể cùng trẻ phân tích nguyên nhân, ví dụ như:

“Dù sao thì ta cũng bị điểm 50 rồi, bây giờ (bố mẹ) và con sẽ cùng nghĩ xem tại sao lại như vậy nhé! Trong bài kiểm tra này, con đã làm sai ở chỗ nào?… Chõ sai này là do con không hiểu rõ câu hỏi? Vì không nhớ ra kiến thức đó? Vì tính nhầm? Vì làm bài vội vàng quá?…

Bố mẹ nên cùng con cái trò chuyện, bàn luận lại những lý do đã dẫn đến thất bại, cố gắng để con tự nói ra, tự nhìn nhận những vấp váp đã gặp phải. Tất cả những điều này sẽ giúp trẻ bình tĩnh hơn với thất bại, hiểu rõ hơn bản thân, từ đó có phương hướng rõ ràng để sửa chữa và phấn đấu trong những “thử thách” về sau.

Với vấn đề bố mẹ cần thiết phải cùng con cái trò chuyện, bàn bạc những lý do dẫn đến thất bại, Giáo sư Hirakv khuyên các bố mẹ cũng nên có thái độ ứng xử tương tự khi con đạt được thành công. Khi con cái thành công, tất nhiên, bố mẹ thường động viện khen ngợi. Theo Giáo sư Hirakv, sẽ là sáng suốt hơn nếu người lớn biết cùng con cái ngồi lại, thảo luận về những nguyên nhân đưa đến thành công của con. Đây mới thật sự là “kỹ năng” cổ vũ, khích lệ con cái tuyệt vời hơn cả!

Có một truyện cổ kể rằng: một vị tướng xuất thân từ gia đình mấy đời theo nghiệp binh đao. Đối với ông ta, chiến chinh và thắng lợi là đương nhiên trong cuộc đời. Có người ca tụng ông là vị tướng tài ba, có thể lưu danh sử sách. Nghe lời tán dương này, ông không mấy lưu tâm và cũng chẳng mấy phần vui vẻ thích thú. Lần khác, người ta khen ông có bộ râu thật đẹp. Ông đã tỏ ra vô cùng sung sướng vì điều này.

Trong câu chuyện trên, vị tướng vui sướng khi được khen về bộ râu là bởi dù không chủ định nhưng bản thân ông đã tự nhận thấy mình có một bộ râu đẹp. Đối với việc khen ngợi con trẻ, chúng ta không nên bỏ qua ý nghĩa này. Nếu bố mẹ ngợi khen vì điểm 10 tối đa con đã đạt được, trẻ sẽ có cảm giác điều này là “đương nhiên”, “chẳng còn gì phàn nàn”. Cứ như vậy, những lần sau khi lại đạt điểm 10, trẻ rất có thể bị rời vào tình trạng “giảm dần tinh thần muốn phấn đấu”. Chúng ta hãy thay đổi “thói quen” ngợi khen này. Chẳng hạn, đừng chờ đến khi con mình đạt được điểm số cao nhất hoặc đứng đầu một kỳ thi, bạn mới có một lời khen ngợi. Hãy quan sát và chọn thời điểm để lời khen của bạn có hiệu quả nhất với con, thậm chí có khi chỉ là:

“Hôm nay ai cũng mệt mỏi cả, thế mà con vẫn ngồi học chăm chỉ cả hai tiếng đồng hồ!”

Bố mẹ hãy “đọc sách” khen ngợi con cái – đó là lời khuyên của Giáo sư Hirakv. Thế nhưng, sự thực là không ít bố mẹ dã phải thừa nhận:

“Không hiểu tại sao tôi có thể nghĩ ra nhiều thứ để trách mắng con mình khi nó phạm lỗi. Thế mà đến lúc nó làm tốt việc gì, tôi muốn nói mấy lời khen ngợi nhưng lại chẳng biết nói thế nào…”.

Lại có những ông bố bà mẹ cho rằng “khen ngợi con cái” chẳng phải là một chuyện khó thực hiện. Khi khen ngợi khả năng vẽ tranh của con mình, có những bố mẹ thường nói: “Tranh con vẽ tuyệt vời, cứ như là hoạ sỹ chuyên nghiệp ấy”. Giáo sư Hirakv cho rằng dối với việc khen ngợi con cái, không nên sử dụng những hình thức khoa trương như vậy. Khen ngợi là cả một nghệ thuật. Mục đích của việc khen ngợi là để củng cố và nâng cao lòng tự tin, tinh thần tự ý thức giá trị bản thân ở trẻ em. Ví như khi khen ngợi một bức tranh của con, bạn hãy đề cập một cách cụ thể và trực tiếp: “Bức tranh này, con chọn màu sắc bầu trời rất ấn tượng” hoặc “Con vẽ bố, giống nhất là đôi mắt đấy”… Thêm vào đó, bạn cũng không nên chỉ nhìn vào “kết quả” của ban thân bức tranh mà đánh giá, bình luận. Bạn hãy gợi mở về việc so sánh năng lực hội hoạ thể hiện ở bức tranh này so với những bức tranh trước của con – “Bức tranh này có tiến bộ đấy! Con nhìn cái lá cây này vẽ đã giống hơn trước, đúng không?”… Khi bạn giữ thái độ cẩn trọng, tỉ mỉ xem xét để đưa ra nhận xét, khen ngợi về thành quả làm việc của con, con trẻ sẽ tin tưởng và tiếp thu đuợc nhiều hơn ý nghĩa từ những nhận xét, lời khen ngợi này.

10. NGHỆ THUẬT PHÊ BÌNH CON CÁI

Đối với vấn đề cha mẹ phê bình con cái, quan điểm của Giáo sư Hirakv cho rằng đây là việc làm cần thiết. Theo ông, những đứa trẻ không từng bị bố mẹ phê bình trong gia đình, đến khi ra làm việc ngoài xã hội thường dễ rơi vào tình trạng như: vừa gặp phải sự phê bình của cấp trên lập tức cảm thấy tất cả sụp đổ, tư tưởng mất phương hướng, hành động đi vào tiêu cực bằng cách nộp đơn xin thôi việc…

Bố mẹ nên phê bình con cái. Phê bình có những tác dụng giáo dục riêng. Thông qua sự phê bình của bố mẹ, trẻ có thể nhận thức đúng sai, hiểu được mặt tích cực hay tiêu cực của vấn đề. Khi trẻ mắc lỗi, nếu bố mẹ đương nhiên bỏ mặc thì coi như chưa làm tròn trách nhiệm của người bố, người mẹ. Điều khó khăn là trong phê bình con cái, bố mẹ phải luôn luôn có thái độ cẩn trọng và nghiêm túc, không những không thể tuỳ tiện quát mắng con cái vô lý mà còn cần những cách thức nói năng sao cho trẻ nhận thức được vấn đề thay vì hình thành tâm lý chán ghét, ứng phó, chống đối bố mẹ. Khi đã phê bình con cái, bố mẹ phải rõ ràng về lập trường, đúng là đúng, sai là sai, phải hợp tình, hợp lý và có sức thuyết phục. Hãy để con cái thật sự tôn trọng và kính phục khi “được” lắng nghe những lời phê bình của bố mẹ!

Để có thể vừa giúp con nhận thức ra và sửa chữa những sai lầm, đồng thời không làm tổn thương đến lòng tự trọng của con, đối với tất cả những người làm bố, làm mẹ, đòi hỏi cả một “nghệ thuật” trong phê bình.

Trước hết, khi phê bình con cái, bạn hãy giữ thái độ nghiêm trang, nói chuyện với con bằng lý lẽ mà không phải bằng những lời chì chiết.

Quan điểm, lập trường của bạn phải trước sau như một trong suốt câu chuyện. Bản thân “phê bình” có giá trị giáo dục nhưng nếu bạn phê bình con cái một cách hồ đồ thì kết quả dẫn tới sẽ rất không hay. Thêm vào đó, cùng một sự việc, nếu hôm nay bạn ngăn cấm, phê bình con, ngày mai bạn lại cho phép, như thế không những bạn đã không rõ ràng về quan điểm mà đối với trẻ, việc nào đúng, việc nào sau cũng trở nên rất mơ hồ.

Nguyên tắc thứ đến trong phê bình con cái là cách phê bình, mức độ phê bình thoả đáng, hợp lý. Giáo sư Hirakv dẫn một ví dụ về một em nhỏ ở tuổi học trung học như sau: vì cho rằng những nội quy của nhà trường là quá khắt khe, cậu bé này đã rủ một số bạn khác phá hoại, gây mất trật tự ở khu ký túc xá. Sau khi gây ra vụ việc, mấy cậu bé quyết định sẽ bỏ học. Biết câu chuyện, thầy Hiệu trưởng đích thân gọi mấy cậu học sinh đã gây lộn xộn trong trường lên phòng của mình. Thầy Hiệu trưởng rưng rưng nước mắt nói với mấy cậu bé: “Thầy thấy những việc các em làm thật đáng trách vô cùng. Nhưng lúc này, thầy không muốn nói điều gì cả. Thầy nghĩ chắc các em cũng đang phải suy nghĩ lại về hành động của mình, đúng không? Thầy hy vọng rằng các em sẽ suy nghĩ lại về những hành động đó”.

Thái độ phê bình nhưng là với tinh thần rộng lượng, kêu gọi sự nghĩ lại của thầy Hiệu trưởng đối với những học sinh trung học này đã có tác động vô cùng mạnh mẽ. Sau lời nói của thầy Hiệu trưởng, những cậu học sinh này đã thôi ý định bỏ học, không những nhận thức được những hành vi sai phạm mà còn hết sức cố gắng để sửa chữa lỗi lầm, rèn luyện bản thân.

Như vậy, vấn đề không phải ở “phê bình con trẻ” mà “làm thế nào để phê bình có tác dụng tối ưu nhất”. Phê bình nghĩa là muốn thay đổi suy nghĩ, thái độ cho đến hành động của đối tương. Nếu như người nghe phê bình chỉ cảm thấy như “vào tai này, ra tai kia” thì những lời phê bình coi như mất giá trị. Với con trẻ, những điều này càng quan trọng. Khi chúng ta thật lòng phê bình con trẻ, ngay đến âm sắc giọng nói cũng nên nhẹ nhàng, thái độ, nét mặt nên từ tốn, nghiêm trang. Khi thực hiện việc “phê bình”, điều chúng ta muốn đưa đến cho bọn trẻ không phải là sự chì chiết mà là thái độ đúng đắn, có lý lẽ, có sức thuyết phục. Giáo sư Hirakv còn rất chi tiết với lời khuyên các bậc phụ huynh nên “ở tư thế đứng” khi tiến hành phê bình con trẻ. Ông cho rằng “đứng” là tư thế nghiêm trang, tạo sức nặng “chính nghĩa” cho hành động phê bình!

Ngoài ra, các bậc phụ huynh cũng nên lưu ý đến không khí trước khi thực hiện “phê bình”. Không nên gây căng thẳng cho cuộc nói chuyện ngay từ phút đầu bằng những mệnh lệnh, những lời quát tháo “phủ đầu”. Thay vì thế, bố mẹ hãy cố gắt bắt đầu bằng những lý lẽ con trẻ dễ chấp nhận, dễ đồng tình. Bố mẹ càng tạo được tâm lý “lắng nghe, chịu nghe” ở con trẻ bao nhiêu thì sự phê bình sau đó càng có kết quả bấy nhiêu. Mỗi lúc con trẻ gây ra một sai lần nào đó, sự việc chắc chắn cũng có những nguyên do ít nhiều. Vì thế, trước khi thực hiện phê bình, bố mẹ cũng nên để con cái tự nói lên những lý do về hành động sai phạm của chính bản thân chúng. Như thế, bố mẹ không chỉ tránh được tính chủ quan trong phê bình mà còn có cơ hội tìm những điểm dựa tâm lí của con để tiến hành phê bình hiệu quả hơn.

11. LÀM GÌ SAU KHI CON MẮC LỖI

Không ít người cho rằng, nếu con cái mắc khuyết điểm nhỏ, có thể không cần phê bình, chỉ cần phê bình con khi phạm sai lầm lớn. Theo Giáo sư Hirakv, thái độ ứng xử đúng đắn và khoa học lại hoàn toàn ngược lại.

Nhớ lại thời học trung học, bản thân ông Hirakv cũng từng thể nghiệm qua những điều này. Một lần, khi thầy giáo trả bài kiểm tra, Hirakv nhận được một điểm số rất thấp. Hirakv vô cùng ngạc nhiên vì Hirakv nhớ rằng bài kiểm tra này mình đã làm rất tốt. Sau khi xem lại toàn bộ bài kiểm tra, Hirkv mới biết lý do là vì Hirakv đã làm sai một con tính. Nhận xét về kết quả bài kiểm tra này, thầy giáo nói với cả lớp của Hirakv: “Khi chấm bài, thầy thấy các em còn rất cẩu thả. Có bài làm đúng đến quá nửa rồi nhưng lại viết sai đáp số. Nhiều bài làm phạm những lỗi sai không đáng có. Thầy yêu cầu tất cả các em phải sửa chữa ngay những sự cẩu thả này. Bằng không, sau này các em sẽ trở thành những người luôn luôn bất cẩn, làm việc gì cũng có thể dẫn đến sai lầm vì thói quen cẩu thả của bản thân”.

Điều thầy giáo của Hirakv muốn khuyên răn các học trò của mình là người ta hay xem thường những sai lầm lặt vặt vì nghĩ rằng nó không mấy tai hại. Thế nhưng, cũng chính vì coi thường những cái sai nhỏ mà sau đó người ta đã mắc nhiều lỗi lầm lớn.

Chúng ta đều hiểu rằng năng lực phán đoán của trẻ chưa thể chín chắn như người lớn.

Đó là vì lý do vì sao bọn trẻ hay mắc lỗi. Song, cho dù là trẻ nhỏ, chúng vẫn có khả năng phán đoán đúng, sai. Nếu mắc phải những sai lầm nghiêm trọng, bọn trẻ chắc chắn cũng cảm thấy buồn bã, cắn dứt. Nhưng vì năng lực phán đoán này chưa hoàn toàn trưởng thành nên bọn trẻ hầu như không thể tự phân tích đến ngọn nguồn những lý do dẫn đến sai lầm của bản thân.

Mặt khác, tồn tại một hiện tượng tâm lý phổ biến (ở cả người lớn cũng như trẻ em) là dẫu biết sai nhưng nếu bị người khách “vạch lỗi” thì tự nhiên nảy sinh phản cảm, thậm chí có tâm lý đẩy cái sai đến chỗ càng sai hơn. Ngay đối với các em ở độ tuổi học sinh trung học, nếu người lớn có vài lời nhắc nhở về chuyện học hành, các em cũng có thể có phản ứng không thoải mái lắm với ý nghĩ “chuyện đó thì con biết rồi, tại sao cứ nhắc đi, nhắc lại nhiều thế?”… Sau những lời nhắc nhở của bố mẹ, tình hình cũng không mấy thay đổi, các em nhỏ mải chơi vẫn hoàn mải chơi!

Theo Giáo sư Hirakv, khi con trẻ phạm sai lầm, bố mẹ không nên nhắc đi, nhắc lại lỗi sai của trẻ. Trẻ cần được một khoảng thời gian nhất định để tự nhìn nhận lỗi lầm. Khi con đã bình tĩnh hơn, bố mẹ hãy yêu cầu con tự nói lại một cách tỷ mỉ toàn bộ sự việc. Lắng nghe trẻ trình bày, vừa để trẻ tự nhận thức đúng sai, bố mẹ vừa tiến hành uốn nắn.

Nếu trẻ mắc những sai lầm không nghiêm trọng, bố mẹ phải tuỳ từng tình huống để nhắc nhở, phê bình. Khi con trẻ chưa hoàn toàn nhận thức đúng đắn lỗi sai của mình, bố mẹ phải kịp thời uốn nắn, nếu không, khuyết điểm nhỏ có thể sai lầm lớn.

Điều đáng chú ý là thái độ của bố mẹ trong lúc phê bình, uốn nắn con trẻ. Một số bố mẹ vì “xót con” nên thường kết thúc phê bình con cái bằng những lời xin lỗi:

“Vừa rồi là mẹ không tốt” hay “Vừa xong bố nóng quá!”

Đây là một khuyết điểm rất cần được các ông bố bà mẹ rút kinh nghiệm. Cách ứng xử này của người lớn không những không đạt được mục đích giáo dục của “phê bình” mà còn làm con trẻ cảm thấy mơ hồ giữa đúng và sai. Bố mẹ mắc trách con cái rồi lại xin lỗi con cái, cuối cùng thì ai đúng ai sai?

Tất nhiên, chúng ta cũng không hoàn toàn loại trừ khả năng người lớn đôi khi cũng không kìm nổi sự tức giận trước những sai lầm của con. Trong trường hợp đó, nếu đã trách mắng, phê bình con cái, bạn có thể nói xin lỗi con. Song, kèm theo lời xin lỗi, bạn cần nói rõ lý do xin lỗi con không phải vì bố mẹ đã phê bình hay trách mắng oan cho con mà thực tế việc con bị phê bình là hoàn toàn đúng.

Phê bình, trách mắng con cái không phải là “đặc quyền” của bố mẹ mà thực sự là một “trách nhiệm”. Và trách nhiệm này chỉ hoàn thành khi bố mẹ biết rõ con cái đã thực sự sửa đổi sai lầm sau những phê bình, trách mắng của mình.

12. ĐỂ CON TRẺ NÓI LÊN CÁCH NGHĨ CỦA BẢN THÂN

Khá nhiều phụ huynh học sinh từng nói với Giáo sư Hirakv:

“Chúng tôi thấy rất khó khăn vì nhiều lúc chẳng biết bọn trẻ muốn nói cái gì”.

Sau nhiều quan sát và phân tích, Giáo sư Hirakv phát hiện ra rằng vấn đề không phải ở bọn trẻ mà ở bản thân người lớn. Trong những cuộc trò chuyện, không ít bố mẹ thường không đủ kiên nhẫn lắng nghe những lời con trẻ, họ thường gắt lên bằng những câu nói:

“Nhanh lên! Con muốn nói gì hả? Con làm bố (mẹ) chẳng hiểu gì cả”.

Bố mẹ luôn yêu cầu con phải nói rõ ràng câu chuyện, nhưng đây lại là một kỹ năng không thể tự nhiên hình thành. Đó là chưa nói đến những đứa trẻ vốn nhút nhát, ít tiếp xúc với bên ngoài, để trình bày rõ ràng một vấn đề, hoàn toàn không phải một việc dễ dàng. Hơn nữa, bố mẹ thường không kiên nhẫn lắng nghe và thêm vào những lời hối thúc “khó nghe”. Trong tình cảnh đó, con trẻ sẽ càng thêm khó khăn để nói ra được vấn đề của mình.

Muốn cont rẻ nói lên được những suy nghĩ của bản thân, người lớn hãy để trẻ cảm thấy “thích” được tâm sự và phải thoải mái về tâm lý. Bố mẹ nên lắng nghe con với thái độ chăm chú và biểu thị đồng tình, có thể chỉ là những cái gật đầu, những lời nói đệm: “Thế à”, “Ừ, con nói tiếp đi”… Những cử chỉ rất nhỏ này giúp con cảm thấy tự tin hơn và tin tưởng bố mẹ đang rất lắng nghe và quan tâm đến vấn đề của mình.

Đôi khi, chúng ta thường gặp các bà mẹ luôn than thở rằng:

“Cháu nhà tôi học lớp bốn, lớp năm rồi mà ăn không nên đọi, nói chẳng nên lời. Thật không biết làm sao cả!”.

Giáo sư Hirakv cho rằng hiện tượng trẻ cảm thấy khó khăn trong diễn đạt chủ yếu vì thiếu tự tin.

Hơn nữa, chúng ta cũng cần lưu tâm đến đặc điểm về tâm lý lứa tuổi. Trẻ em cùng độ tuổi, thường thường khả năng diễn đạt ở bé gái tốt hơn ở bé trai.

Để cải thiện tình hình này, điểm mấu chốt là bố mẹ phải giúp con tạo dựng sự tự tin. Khi con muốn nói, hãy khuyến khích con và kiên trì lắng nghe. Bạn đừng cắt ngang lời con trẻ, đừng vì sốt ruột với sự ấp úng, dài dòng trong diễn đạt của con mà vội nói thay, nói át đi. Bố mẹ nên để cho con được trình bày hết suy nghĩ, sau đó bằng cách nhắc lại một cách tế nhị, hãy uốn nắn những chỗ diễn đạt sai của con. Chẳng hạn: “Việc con muốn nói, bố (mẹ) đã hiểu rồi. Ý của con là… Con định nói là…”. Với cách thức này, con trẻ dần dần tiếp thu và ghi nhớ được những cách diễn đạt đúng, trong trường hợp này phải dùng từ này, trong trường hợp kia nên nói thế kia… Giáo sư Hirakv còn nhấn mạnh, ngay cả trường hợp con bạn trình bày một quan điểm lệch lạc, một ý kiến sai thì ngoài uốn nắn về tư tưởng, bạn cũng không nên bỏ qua việc sửa chữa những lỗi diễn đạt của con.

Liên quan đến khả năng diễn đạt, việc phản bác ý kiến của người khác trong tranh luận cũng là yêu cầu khá phức tạp. Đối với con trẻ, điều này càng khó khăn và có quan hệ tới khả năng sáng tạo.

Nhà bác học vĩ đại trên thế giới – Einstein, tác giả của Học thuyế tương đối nổi tiếng trên thế giới từng khẳng định nguyên tắc sống của ông là:

“Phải luôn luôn có những kiến giải riêng của bản thân, những kiến giải độc đáo và không giống ai bao giờ”.

Có thể nói, mọi sự sáng tạo đều bắt đầu từ khả năng suy nghĩ độc lập và “chịu khó” phản bác ý kiến của người khác. Vì vậy, nếu trẻ muốn trình bày những ý kiến riêng của bản thân, bất luận thế nào, bạn hãy tôn trọng và khuyến khích.

Thói quen và năng lực độc lập suy nghĩ thể hiện tính tự chủ cao trong tư duy. Thế nhưng, nhiều người lại quan niệm rằng quá tự tin vào ý kiến của bản thân là chủ quan chủ nghĩa. Vì thế, khi trẻ không thích chơi những đồ chơi bố mẹ mua cho thì bị coi là “lắm chuyện”, khi không nhất nhất làm theo điều bố mẹ dặn thường bị bảo là “cứng đầu, cứng cổ”…

Giáo sư Hirakv cho rằng bố mẹ không thừa nhận con cái cần có ý kiến riêng nghĩa là đã xâm phạm sự phát triển tự nhiên của con trẻ. Hậu quả của điều này là bạn có thể biến con mình thành kiểu “gió thổi chiều nào xoay chiều đó”. Chúng ta có thể hiểu rõ điều này khi quan sát cách ứng xử trong những gia đình người Pháp.

Ở Pháp, người có thói quen tán đồng ý kiến của người khác sẽ bị coi là hạng ngốc ngếch. Trong các gia đình Pháp, ý kiến của con trẻ rất được tôn trọng, cho dù có thể ý kiến đó còn khờ khạo hoặc ấu trĩ. Bố mẹ không đưa ra những ý kiến áp đặt mà luôn luon trên cơ sở lắng nghe ý kiến của con để cùng con thảo luận mọi vấn đề.

Thái độ ứng xử giáo dục này rất đáng để chúng ta học tập. Cho dù ý kiến của bọn trẻ còn sai lệch thì bố mẹ vẫn nên động viên trả phát biểu, động viên trẻ tự chủ suy nghĩ. Bố mẹ chỉ làm nhiệm vụ điều chỉnh, sửa chữa những suy nghĩ sai của con, nhất quyết đừng “suy nghĩ hộ” bọn trẻ. Hãy để con trẻ độc lập suy nghĩ và tự do phát biểu ý kiến của bản thân – đó là con đường đúng đắn để bồi dưỡng năng lực tư duy và khả năng sáng tạo của trẻ.

13. “BAO BỌC” KHÔNG CÓ LỢI VỚI CON TRẺ

Trẻ không từng được rèn luyện qua những nguy hiểm nhỏ sẽ không thể vượt qua những sóng gió, nguy hiểm lớn của cuộc đời – đó là lời cảnh báo của Giáo sư Hirakv với những ông bố bà mẹ quá bao bọc và nuông chiều con cái.

Ngày nay, hầu như trong mọi gia đình có con nhỏ “dùng dao” cũng trở thành điều cấm kỵ với con trẻ. Trẻ không dùng dao để gọt bút chì vì đã có dụng cụ gọt bút chì. Nhiều đồ chơi của trẻ chủ yếu làm bằng chất liệu nhựa. Có thể thấy môi trường sống của trẻ nhỏ đã được bảo vệ an toàn và biệt lập với mọi nguy hiểm như thế nào.

Thế nhưng, nếu đứng ở góc độ bên kia để nhìn nhận vấn đề, chúng ta thấy rằng một khi trẻ hoàn toàn không có khái niệm “đương đầu với hiểm nguy” thì năng lực này của trẻ cũng tiêu biến. Điều này khẳng định như vậy có vẻ quá phóng đại nhưng bạn hãy thử theo dõi phân tích sau đây của Giáo sư Hirakv:

Ví như con trẻ thường rất thích trèo cây. Theo cách nhìn nhận của bố mẹ, con trẻ trèo cây là một hành động vô cùng nguy hiểm. Song, đây là một nguy hiểm thật sự “có giá trị” với bọn trẻ. Khi trẻ nhìn thấy cái cây muốn trèo lên, tất nhiên trong đầu óc phải hình thành phán đoán “cây này mình có thể trèo lên được không?”. Tiếp đến, trẻ bắt đầu tư duy xem nên trèo lên bắt đầu từ cành cây nào và đến cành cây nào vẫn giữ được trọng lượng cơ thể mình. Chỉ sau khi đã hình thành những tính toán như thế, trẻ mới thực hiện hành động trèo cây cụ thể. Tất nhiên, hoàn toàn có khả năng trẻ bị ngã khi trèo cây. Đó là vì những tính toán ban đầu của bản thân trẻ đã không ăn khớp với thực tế. Nếu bị ngã, trẻ coi như “thất bại”. Trẻ học được kinh nghiệm từ mặt tiêu cực của vấn đề (sự việc thất bại).

Có thể thấy, trong khi quá lo lắng đến “sự an toàn”, bố mẹ đã vô tính lấn át năng lực tự lập, năng lực tự xoay sở trong cuộc sống của con. Quan sát những em bé trong tuổi tập đi, ban đầu không tránh khỏi bị ngã, sau đó dần dần học được cách giữ thăng bằng cơ thể và có những bước đi vội vàng.

Nếu những lúc bé bị ngã, bố mẹ vội chạy ra đỡ dậy, trẻ không chỉ mất nhiều thời gian tập đi hơn mà còn hình thành thói quen chờ đợi người đỡ dậy mỗi lần vấp ngã. Tuy nhiên, mọi điều vừa trình bày không có nghĩa là bố mẹ để mặc con cái “mạo hiểm”. Tuỳ hoàn cảnh, bố mẹ nên tự cân nhắc mức độ nguy hiểm con trẻ cần thể nghiệm, trong đó có những trường hợp phải bằng mọi cách “biệt lập” trẻ với nguy hiểm.

Theo tham khảo của Giáo sư Hirakv, phương pháp “để con trẻ ra ngoài một mình” của ông Kohikan rất đáng để chúng ta học tập. Ông Kokihan tưừngnghĩ rằng một đứa trẻ ba tuổi thì không thể một mình đi ra. Nhưng sau đó, ông đã quyết định kiểm nghiệm lại quan điểm này. Ông thực hiện “theo dõi” một em bé ba tuổi sẽ xoay sở như thế nào khi đi ra ngoài một mình. Kết quả chứng minh em bé hoàn toàn có khả năng nhớ đường đi và giữ an toàn cho bản thân. Từ đó, ông hình thành ý tưởng xây dựng phương pháp giáo dục trẻ nhỏ với nội dung “để con trẻ tự đi ra ngoài”. Lần khác, ông đã nhờ một em nhỏ học lớp một đi ra bưu điện Tokyo gửi điện thư ra nước ngoài. Trước khi để em bé đi, ông dặn:

“Nếu cháu muốn đi đâu thì cứ đi, khi cần hỏi đường thì tốt nhất nên hỏi các chú cảnh sát”.

Đồng thời, ông còn khuyến khích em bé này khi trở về có thể đi đường khác lúc đi. Em bé này về sau tiếp tục dạy dỗ theo phương pháp của ông Kohikan. Kết quả là tới năm lớp bốn, em đã tự đi mua vé tàu, tự đi đặt bàn ăn ở nhà hàng và đáng ngạc nhiên là đã một mình ra nước ngoài du lịch.

Giáo sư Hirakv cho rằng phương pháp giáo dục của ông Kohikan có nhiều ý tưởng hay nhưng không dễ thực hiện. Bởi vì, sử dụng phương pháp này, chúng ta phải tính trước khả năng an toàn tuyệt đối cho các em nhỏ, ngay cả tình huống trẻ “thất bại” (như bị lạc đường, bị ngã trên đường đi…).

Bản thân Giáo sư Hirakv đã có lần từng áp dụng phương pháp này. Một lần, ông đưa học sinh đi thăm quan ngoại khóa. Theo yêu cầu của ông, các học sinh sẽ tự đi và tập trung tại khu nhà trọ nơi thăm quan. Các học sinh phải tự lập kế hoạch, thời gian và lựa chọn phương tiện để đến điểm tập trung. Tất nhiên, một số học sinh trong đoàn đã đến muộn vì lên nhầm xe bus nhưng thông qua lần tập huấn này, các em đã thu được nhiều kinh nghiệm với việc tự xoay sở ở bên ngoài.

Để con trẻ tiếp cận với một số “công việc có tính chất nguy hiểm nhất định” là điều cần thiết. Giáo sư Hirakv từng chứng kiến một em nhỏ học lớp sáu vì nghịch diêm nên đã gây ra hoả hoạn. Nguyên do là vìhọc sinh này chưa từng bao giờ được cầm một que diêm cho tới tiết thực hành vật lý. Sau tiết học đó, em bé này cảm thấy vô cùng lạ lẫm nên đã lấy diêm và lửa làm đồ chơi. Kết quả thật tai hại như chúng ta đã biết!

Trong trường học của Giáo sư Hirakv, trẻ em lớp hai được yêu cầu sử dụng diêm, giấy báo và củi khô để nhóm bếp ngoài vườn nấu cơm và hâm rượu Sakê. Khi tiến hành bài học này, Giáo sư Hirakv đã gặp rất nhiều trường hợp ngoài dự tính, chẳng hạn có em không biết quẹt diêm, có em sợ lửa đến phát khóc, có em quẹt diêm ra lả nhưng lại đốt trực tiếp vào củi nên cuối cùng vẫn không nhóm được bếp…

Ngày nay, trẻ em được sống trong cuộc sống hiện đại với bếp gas, bếp điện. Việc các em không biết đánh lửa nhóm bếp cũng là chuyện thường tình. Thêm vào đó, quan niệm cho rằng “lửa nguy hiểm và tốt hơn cả là không nên để trẻ con động chạm tới” của nhiều bố mẹ cũng càng lấy đi những cơ hội để trẻ rèn luyện chút thao tác tưởng như rất đơn giản này. “Đốt lửa” chỉ là một trong nhiều thao tác cơ bản mà trẻ em bây giờ hầu như không được biết tới. Giáo sư Hirakv cho rằng để trẻ rèn luyện những thao tác tương tự như vậy là hết sức quan trọng. Qua đó, các em không chỉ biết được một số kỹ năng, thao tác, mà quan trọng nhất là học được cách tự xoay sử trong mọi tình huống. Để cải thiện tình hình này, Giáo sư Hirakv kiến nghị một phương pháp không quá khó khăn trong thực hiện, đó là hãy đưa con trẻ đi du lịch, đi dã ngoài thường xuyên hơn.

14. CHO PHÉP CON THẤT BẠI

Là nhà sản xuất xe hơi, xe máy, người ta lập Công ty Honda nổi tiếng toàn thế giới nhưng ông Honda Soichiro có một thời đi học khá trái ngược. Khi là học sinh tiểu học, Honda thường đứng cuối lớp về học lực. Với mọi công việc khác, Honda thường cũng không thực hiện được, gần như chạm vào việc nào thì việc đó thất bại. Mặc dù vậy, sau này chính ông đã thừa nhận những năm tháng “hậu đậu” đó là lý do để ông có được đầu óc năng động và sáng tạo như ngày nay. Ông nói:

“Với mỗi công việc, nếu bạn tự bắt tay vào làm, bạn sẽ hiểu được giá trị cũng như tác dụng của nó khác nhiều lần so với việc chỉ đứng trông người ta làm…”.

Rất tâm đắc với quan niệm này, Giáo sư Hirakv khuyên các bậc phụ huynh học sinh đừng chỉ đứng nhìn thất bại của con cái, tốt hơn là hãy suy nghĩ mặt lợi hại của những thất bại ấy.

Mỗi con người trong quá trình lớn lên, trưởng thành đều không thể tránh khỏi đôi lần thất bại. Tất nhiên cũng có những đứa trẻ gặp nhiều thất bại hơn con số một, hai lần. Bố mẹ nhìn con cái thất bại thường lo lắng không yên, e sợ rằng tương lai của con rồi cũng chỉ dắt dây thất bại.

Sự lo ngại này đẩy nhiều bố mẹ đến tư tưởng tìm mọi cách để con không phải đối mặt với thất bại nữa. Không muốn thừa nhận thất bại của con, bố mẹ vô tình gây nên áp lực cho con trẻ: “Không được làm sai nữa đấy!”, “Con đã làm hỏng việc này bao nhiêu lần rồi hả?”, “con mà còn làm sai nữa thì”…

Khi con cái gặp thất bại, bố mẹ hãy là những người giảm bớt gánh nặng tâm lý của con. Không chỉ bố mẹ phải có thái độ chấp nhận, thừa nhận sự thất bại cảu con mà còn phải là người giúp con có những nhìn nhận tích cực với thất bại. Sau mỗi lần con gặp thất bại, điều bạn cần làm là giúp con có sức mạnh để sửa chữa những sai lầm và tự tin vững vàng vươn lên.

Thực tế đã chứng minh rằng, liệu pháp hữu ích cho tâm lý con trẻ là cảm giác “được phép thất bại” hơn là “bị cấm đoán thất bại”. Ông Honda Soichiro cũng từng khẳng định:

“Không thể sợ thất bại. Lý do duy nhất buộc bạn không được sợ thất bại là vì một khi đã sợ thất bại thì bạn làm gì cũng không thành công!”.

Nếu như luôn ở trong tâm lý “sợ thất bại”, “sợ sai” thì với mọi công việc, trẻ luôn không dám nói, không dám làm. Giáo sư Hirakv dẫn ra một ví dụ sau để chứng minh điều này: Một em nhỏ luôn sợ hãi khi phải đến trường. Bố mẹ hỏi lý do, em nhất định không chịu nói. Quá lo lắng, bố mẹ đưa em tới bác sĩ. Sau nhiều kiên nhẫn, bác sĩ tìm ra nguyên nhân. Điều đáng ngạc nhiên là chính em nhỏ này đã tự nói ra nguyên nhân “căn bệnh” của bản thân mình:

“Cháu không bị làm sao cả. Cháu không muốn đến trường vì ở trường, mỗi khi làm việc gì, nếu cháu làm sai đều bị các bạn ấy lôi ra làm trò cười. Cháu rất sợ đến trường, rất sợ bị các bạn ấy cười…”.

Từ khía cạnh trên của vấn đề, Giáo sư Hirakv thậm chí còn đề nghị người lớn đôi khi hãy để con trẻ gặp thất bại. Chẳng hạn, khi trẻ muốn “thử nghiệm” một ý tưởng nào đó, cho dù với tầm suy nghĩ của người lớn, chúng ta hiểu rằng việc đó sẽ đi đến thất bại thì ở mức độ cho phép, chúng ta hãy để trẻ được theo chủ kiến riêng, để trẻ được “dám làm dám chịu”, có thất bại, có trải nghiệm. Hơn nữa, không nên loại trừ khả năng những ý tưởng của con trẻ có thê vượt ngoài dự tính của chúng ta, con trẻ có thể thành công khi mà chủ quan chúng ta không phải lúc nào cũng hoàn toàn đúng.

15. ĐỪNG ĐỂ CON TRẺ CÓ TƯ TƯỞNG CHỐNG ĐỐI

Phản kháng là một tiêu chí quan trọng chứng tỏ con bạn đã trưởng thành. Đến một độ tuổi nhất định, con trẻ sẽ tự lập, có chủ kiến riêng trong nhiều vấn đề. Khi nghe ý kiến của bố mẹ cũng nưh của mọi người xung quanh, thay vì sự phục tùng , trẻ sẽ có sự tiếp nhận mang tính lưạ chọn, không tán thành. Vì đặc điểm này, người lớn cần hiểu rằng ở độ tuổi “biết phản kháng”, trẻ sẽ luôn có xu hướng không tiếp thu vô điều kiện những quan điểm của bố mẹ. Chẳng hạn, nếu người lớn trách mắng, con trẻ có thể phản ứng bằng những lời tương tự như: “Thê stại sao hôm trước mẹ cũng làm như thế?”, “Tại sao chỉ con không được làm thế, tại sao con làm thế thì bị mắng?”… Dù kiên nhẫn đến đâu nhưng nếu phải nghe những phản ứng này từ con trẻ, chắc hẳn ít bố mẹ nào có thể tiếp tục kiên nhẫn và kìm nén tức giận!

Nhìn nhận vấn đề này, Giáo sư Hirakv có một cách lý giải khác. Theo ông, cho dù tức giận nhưng chúng ta nên thừa nhận rằng khi con trẻ biết phát hiện lỗi sai của bố mẹ, khi con trẻ dám nói ra lỗi sai của bố mẹ, điều đó chứng tỏ con đã trưởng thành về năng lực phán đoán, nhìn nhận của bản thân. Theo góc độ này, “phản kháng” nên được coi là một tiêu chí của sự trưởng thành.

Không phục tùng cha mẹ, thậm chí luôn tìm cách chống đối những ý kiến của cha mẹ, những biểu hiện này luôn đi cùng sự trưởng thành năng lực độc lập, chủ động tư duy của con trẻ. Đến một độ tuổi lớn hơn, khi trở thành những người lớn thực sự, con cái bạn sẽ biết đứng ở lập trường của người khác để suy nghĩ, biết nhìn nhận ý kiến của người khác, khi đó, những phản ứng trước sự bất đồng quan điểm sẽ bình tĩnh và có tính kiểm soát hơn. Vì thế, bạn nên hiểu rõ điều này để ứng xử một cách thoả đáng hơn khi con có tư tưởng “phản kháng”.

Trong những cuốn sách của mình, Giáo sư Hirakv ghi lại câu chuyện như sau: ở một khu nhà tập thể của Tokyo, có một người phụ nữ nổi tiếng ở tài trong việc thuyết phục người khác. Rất nhiều bố mẹ trong khu nhà thường tới nhờ bà đến khuyên giải giúp bọn trẻ. Khi hỏi về bí quyết, bà nói:

“Điều này chẳng có gì gọi là bí quyết cả.

Chỉ canà mình nói sao để dễ tiếp thu thì người nghe sẽ hiểu ra vấn đề thôi!”.

Thực ra, đây chỉ là một cách nói khiêm tốn. Để có được kỹ năng “nói sao cho đối phương dễ tiếp thu” đòi hỏi người nói phải hội tụ nhiều yếu tố, trong đó quan trọng là phải biết tạo ra “những điều kiện để dễ tiếp thu”. Những điều kiện này có thể kể ra mấy điểm sau:

Thứ nhất, phải tìm cách thay đổi những phản cảm từ phía con trẻ, phá bỏ thành kiến ở trẻ cho rằng cha mẹ luôn không đồng tình với ý kiến của chúng. Để tránh những “xung đột” trực tiếp, bố mẹ có thể thông qua người thứ ba hoặc bằng cách viết thư, viết nhật ký… Điều cốt yếu ở bước đầu tiên là phải để con trẻ cảm thấy bố mẹ và chúng không đứng ở hai phía đối lập. Bằng cách này hay cách khác, bố mẹ hãy cố gắng biểu hiện cho trẻ thấy bố mẹ thật sự rất hiểu vấn đề của trẻ và hoàn toàn có khả năng cùng chia sẻ.

Thứ hai, không khí đối ngoại giữa bố mẹ và con cái phải thể hiện tinh thần tôn trọng, vì bố mẹ sẵn sàng lắng nghe và chia sẻ những quan điểm của con nên con cũng hãy lắng nghe và chia sẻ những quan điểm của bố mẹ. Bố mẹ nhất thiết không nên sử dụng những lời chỉ trích, những câu ra lệnh, áp đặt với trẻ, như thế là để tránh những lời “cãi trả”, những phản ứng bồng bột từ phía con trẻ trong cuộc đối thoại.

Thứ ba, cuộc đối thoại chỉ thật sự bắt đầu khi tâm lý con đã bình tĩnh và ổn định. Trước hết, bố mẹ hãy tháo gỡ cho con những gánh nặng tâm lý. Đây cũng là một yếu tố tạo nên xu thế “dễ tiếp thu” ở con trẻ. Trong cuộc trò chuyện, muốn phê bình hay khuyên nhủ con cái, bố mẹ hãy đừng quên bày tỏ sự tin tưởng của mình nơi con trẻ: “Bố tin rằng con sẽ làm được”, “Mẹ biết con hiểu những điều mẹ nói”…

Mỗi lần phê bình hay khuyên giải con cái, bố mẹ phải hết sức chú ý đến khả năng ứng phó, tâm lý bất mãn có thể nảy sinh ở con. Nếu xử lý các tình huống giáo dục không thoả đáng, hậu quả không chỉ là bố mẹ thất bại trong phê bình, khuyên giải con mà còn để lại trong đầu óc bọn trẻ những tư tưởng bất bình, bất mãn, những thứ rất nguy hại cho sự phát triển lành mạnh của tâm lý – tinh thần.

Để những tư tưởng bất bình, bất mãn không lưu giữ trong đầu óc con trẻ. Giáo sư Hirakv đưa ra hai nguyên tắc. Khi con trẻ bất mãn, biểu hiện bên ngoài sẽ là sự phẫn nộ, phản kháng, thái độ ứng phó quyết liệt. Lúc đó, nguyên tắc thứ nhất là nếu những bất đồng, phẫn nộ thì tức là “năng lượng bất mãn” đã “triệu tiêu” cùng “năng lượng phản kháng”. Còn nguyên tắc thứ hai là hãy để cho những bất mãn cũng như những phẫn nộ này cùng không xảy ra, nghĩa là ngay từ đầu, bố mẹ phải kiểm soát tình hình để không xảy ra “xung đột trực diện”.

Giáo sư Hirakv phân tích, nếu theo nguyên tắc thứ nhất, khi con trẻ cảm thấy bất bình tức là sẽ nảy sinh một quan điểm riêng. Lúc đó, bố mẹ để cho con cùng tham gia bàn bạc để đi tới một số cách giải quyết, sau đó để trẻ lựa chọn một trong những cách giải quyết này. Như vậy, trong khi để con tham gia cùng tìm hướng giải quyết, bố mẹ vừa có thể khéo léo điều chỉnh suy nghĩ của con, vừa để con có cảm giác rằng đây đều là những cách giải quyết được đưa ra bởi chính bản thân con (mà không phải từ sự bắt ép của bố mẹ). Việc này cũng giống như bảo một người rót hai cốc nước cho bằng nhau. Sau đó để người thứ hai lựa chọn lấy một cốc. Vì người thứ hai được chọn trước nên sẽ cảm thấy hài nhất với cốc nước mình chọn và chính là hài lòng với bản thân mình. Với người rót nước, bản thân anh ta đã rót hai cốc nước bằng nhau theo đúng ý kiến của mình, vì thế sẽ cho rằng dù chọn cốc nước nào thì cũng như nhau. Khi đó, anh ta dù là người chọn sau nhưng vẫn hài lòng với kết quả của mình. Trong tình huống này, cả hai người đều đạt được sự thoả mãn.

Theo nguyên tắc thứ hai, đầu tiên bố mẹ phải để con cái nói hết những bất bình, bất mãn của bản thân. Sau khi lắng nghe, bố mẹ hãy từng bước “chuyển đổi mục tiêu” của sự bất bình ở con trẻ. Chẳng hạn, có thể nói với con:

“Bố biết việc này con không đồng ý nhưng cũng không thể giải quyết ngay được…”.

Mục đích chủ yếu là chuyển hóa sự bất bình ở con trẻ sang một tâm thế dễ giải toả hơn, ngăn cản những bất bình phát sinh thành sự phẫn nộ, tức giận không có khả năng kiểm soát.

16. TĂNG CƯỜNG SỨC BỀN BỈ CỦA CON TRẺ

Nhiều người than thở rằng bọn trẻ bây giờ ít tập trung và sức bền bỉ rất kém. Theo quan sát của Giáo sư Hirakv, một trong những nguyên nhân nằm ở “quảng cáo” trên truyền hình. Chúng ta biết rằng yêu cầu đầu tiên của quảng cáo là tạo sự chú ý tập trung của mọi người chỉ trong 30 giây đến một phút, mục tiêu là gây nên những ấn tượng về thương hiệu sản phẩm trong đầu óc người xem.

Những đứa trẻ ngày nay hầu hết đều xem quảng cáo từ rất nhỏ. Trẻ sớm quen với những động thái nhanh, sức tập trung chỉ trong những khoảng thời gian ngắn.

Tuy nhiên, bố mẹ không nên vì thế mà quá lo lắng. Quảng cáo chỉ là một trong những tác nhân kích thích. Về mặt nào đó, trẻ con vốn chưa có khả năng chịu đựng lâu, chẳng hạn, chúng chỉ có thể ngồi yên độ năm ba phút là cảm thấy chán nản, khó chịu.

Phân tích khả năng chịu đựng của trẻ, chúng ta sẽ thấy hai trường hợp chính:

Một là, những em nhỏ làm việc gì cũng chóng nản, ví dụ: chỉ có thể ngồi học tập trung chưa đầy năm phút.

Hai là, những em nhỏ luôn luôn thay đổi sở thích, hôm nay thích mốn đồ chơi này, mai thích món đồ chơi khác, nói cách khác, đó là những em nhỏ không kiên trì với một hoạt động nhất định.

Vậy bố mẹ cần làm gì để tăng cường khả năng chịu đựng cũng như tính kiên trì, bền bỉ của các em nhỏ? Những biện pháp đầu tiên là bố mẹ hãy cho trẻ lựa chọn và làm một số công việc với yêu cầu hằng ngày đều nhất định hoàn thành. Không phụ thuộc là công việc lớn hay nhỏ, nhiều hay ít, mục tiêu quan trọng là trẻ phải hoàn thành mỗi ngày, chẳng hạn, giúp bố mẹ sắp bát đũa chuẩn bị bữa cơm, buổi sáng mở hòm thư lấy báo cho bố mẹ, viết nhật ký trước khi đi ngủ… từ việc rèn luyện các thói quen cuộc sống hàng ngày, bố mẹ tiếp tục với việc giúp con tập trung trong học tập. Bố mẹ không nên nôn nóng, hãy gia tăng thời lượng một cách chậm rãi. Bắt đầu, có thể chỉ yêu cầu con tập trung học bài trong năm phút mỗi ngày, sau đó tăng lên bảy phút, tám phút… Khi con tỏ ra cố gắng và thực hiện được yêu cầu đề ra, bố mẹ hãy cổ vũ, động viên, cho dù những tiến bộ của con còn rất chậm.

Chỉ cần kiên trì hướng dẫn, động viên con trẻ, bạn sẽ thấy con trẻ có thể nhanh chóng thay đổi như thế nào. Một khi trẻ đã hình thành thói quen tập trung, chuyên tâm thì dù được buông lỏng, trẻ cũng vẫn hoàn thành những công việc cần làm. Điều này cũng giống như một người có thói quen viết nhật ký. Khi đó, dù mỗi ngày bận bịu đến đâu, mệt mỏi thế nào, người ấy cũng phải cố gắng mở sổ viết được một đôi dòng rồi mới cảm thấy yên tâm!

Nguồn sách Phương pháp giáo dục thực tiễn Hirakv

Trả lời