(ROB GILHOOLY, Japan Times) – Cạnh những ruộng khoai lang, Saeko Ando ngồi bên hiên nhà và trò chuyện với Nguyen Thi Son, người đã nhuộm răng đen giống như truyền thống một thời của người Việt nay đã mai một. Bà nói với Ando rằng thế hệ trẻ của đất nước này đang lãng quên quá khứ của dân tộc, không chỉ là những cuộc chiến tàn khốc thập niên 60, 70 mà cả những giá trị văn hóa truyền thống.
“Tôi nói với bà ấy rằng nước Nhật cũng trải qua những điều tương tự,”Ando nói. “Hai đất nước này có rất nhiều điểm chung”. Sự ngưỡng mộ của Nguyen dành cho Ando, người đã coi Việt Nam là nhà trong 23 năm qua, khá rõ ràng. Đó không chỉ là sự cảm kích dành cho sự uyên bác của Ando về ngôn ngữ và xã hội của Việt Nam mà còn là vì sự cống hiến không mệt mỏi với nghệ thuật tranh sơn mài đặc trưng của Việt Nam. Phòng tranh của Ando nằm ở Hội An lưu giữ những bằng chứng rõ ràng về sự cống hiến ấy.
Trên kệ là hàng chục bàn chải, bút lông và các dụng cụ vẽ cũng như nhiều hộp chứa đầy các chất lỏng có màu sắc và độ nhớt khác nhau. Ando giải thích rằng tranh sơn mài Việt Nam là thức mà cô có thể dùng để mô tả lại những ý tưởng nghệ thuật đã được nuôi dưỡng từ thời thơ ấu ở quê nhà Aichi. Khi còn nhỏ, Ando và người mẹ có ảnh hưởng lớn đến cô là những người có sức sáng tạo dồi dào đã làm ra rất nhiều tác phẩm, bao gồm cả cuốn sách ảnh đạt giải nhất tại một cuộc thi cấp tỉnh.
Cảm thấy hạnh phúc khi được tự mình phát triển năng khiếu nghệ thuật và thận trọng trước những trở ngại mà hệ thống giáo dục Nhật áp đặt lên sức sáng tạo, Ando quyết định không học về nghệ thuật mà chọn khoa Triết của đại học Waseda. Sau đó cô lựa chọn việc trở thành tiếp viên hàng không vì động lực nghệ thuật. Cô quyết định sẽ học nghệ thuật hoặc thủ công ở nước ngoài nhưng thiếu nguồn tài chính. Cô lưu lại những nơi máy bay dừng và tìm mọi cơ hội thăm thú các phòng tranh trên khắp thế giới, đắm mình vào những phong cách khác nhau.
Lần tới thăm bảo tàng Van Gogh ở Amsterdam đã khơi dậy những hứng thú hội họa trong cô. Sau khi nghỉ việc, cô tham gia một lớn học sơn dầu ở Tokyo và đó là điều khiến cô rời Nhật Bản.
“Tôi chưa bao giờ thực sự nghĩ mình là một nghệ sĩ chỉ làm việc với màu sắc và khi đã cảm thấy đủ sau một năm học ở trường, tôi xếp hành lý và lên đường thăm một người bạn làm điêu khắc ở Bali. Trên đường đi, tôi dừng lại ở Bangkok và nghe nói rằng sẽ rất dễ dàng để đến thăm Việt Nam nên tôi đã lên ngay chuyến bay đầu tiên mình có thể mua vé”. Đầu tiên cô tới Hồ Chí Minh rồi đi ra bắc để tới Hà Nội, nơi cô cảm nhận những người dân địa phương hiếm khi cười và dường như không quá thân thiện. Tuy nhiên khi đột nhiên bị ốm, cô đã nhận được sự giúp đỡ bất ngờ. “Bà chủ nhà trọ đưa tôi đến bệnh viện và mua thuốc cho tôi, không hề đòi tôi tiền,” Ando nói. “Bà ấy vẫn không cười nhưng điều đó làm tôi nghĩ rằng chắc chắn có những điều tốt đẹp ở những con người này mà mình chưa nhận ra. Tôi sẽ ở lại đây cho tới khi tìm ra điều đó. Đã 23 năm trôi qua kể từ khi ấy.”
Cô nhanh chóng tìm ra lời giải thích cho sự hiếu khách kỳ lạ này. Hà Nội, cũng giống như các vùng khác của Việt Nam, vẫn đang trên đà thích ứng với những cải cách Đổi mới vào cuối những năm 1980, trong khi những dấu vết của một nền văn hoá bế quan tỏa cảng làm hạn chế việc tiếp xúc với người nước ngoài. Cô cũng khám phá ra một phong tục lâu đời mà người Việt gọi là thính cảm. Ando giải thích: “Đó là một loại trái phiếu, một sự tin tưởng cần có thời gian để xây dựng. Đó là một đặc điểm tôi yêu và là một trong những lý do chính tôi quyết định ở lại. Đáng buồn thay ở Việt Nam ngày nay nó đang biến mất, đặc biệt là ở các thành phố lớn “.
Cũng trong khoảng thời gian đó, Ando bắt đầu chú ý đến tranh sơn mài của người Việt Nam, mà trong những ngày đó phần lớn hướng tới thị trường Đông Âu và không gây được quá nhiều cảm hứng. Tuy nhiên, nó vẫn gợi lên những nỗ lực sáng tạo trong cô và Ando bắt đầu vẽ những bức tranh dựa trên các ý tưởng trong đầu mình. Cô quyết định tìm hiểu về quá trình sản xuất và tới thăm các phòng làm việc của các nghệ sỹ sơn mài. Một trong số họ là Trịnh Tuân, một nghệ sĩ danh tiếng, có nhiều tác phẩm mà cô đã từng xem trong một phòng tranh ở Hà Nội và ngưỡng mộ. Cô ngay lập tức yêu cầu được học tại workshop của ông. Cô nói: “Tôi nghĩ mình sẽ phải trải qua nhiều tuần lễ xin xỏ và bị từ chối theo truyền thống của người học việc hồi xưa, nhưng ông ấy đã đồng ý ngay lập tức.”
Qua Trịnh và hai bậc thầy sơn mài khác, Ando đã học được toàn bộ tinh hoa của Sơn Mài, thậm chí cô đã phải dành bốn năm để học về nghệ thuật chế tác các tấm ván làm hình nền cho tranh Sơn Mài. “Có lẽ vì tôi là người Nhật, tôi không chỉ quan tâm tới những kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết mà còn chú ý đến quá trình tạo ra các công cụ mà hầu hết người Việt Nam không bận tâm. … Tuy khó khăn nhưng đó là những điều tôi thấy thích thú. Nó đã đưa tôi trở lại thời thơ ấu, khi tôi tạo ra mọi thứ với mẹ. ”
Cô thậm chí còn nghiên cứu về nguồn gốc của Sơn Mài, đó là một thuật ngữ được các nghệ sĩ thời kì Pháp thuộc ở Hà Nội đặt ra từ một thế kỷ trước khi tìm kiếm sự thay thế cho sơn dầu và màu nước. “Đó là khi họ bắt đầu sử dụng sơn mài Việt Nam, mặc dù họ thấy nó phải được chà nhám để sử dụng”, cô giải thích ý nghĩa của Sơn Mài. Ando nói nghệ thuật đã này bao gồm việc sơn nhiều lớp sơn mài, vỏ nghiền, lá bạc và các vật liệu khác trên bảng và sau đó chà nhám để lộ các lớp ẩn bên dưới.
Mặc dù Nhật Bản có truyền thống lâu đời về thủ công mỹ nghệ sơn mài ở, nhưng sơn mài của hai nước rất khác nhau, chủ yếu là do lượng nước lớn hơn trong sơn mài Việt Nam. “Sơn mài không khô, nhưng cứng lại thông qua các quy trình hóa học và sơn mài Việt Nam cần có nhiệt độ và độ ẩm cao hơn để hoạt động. Ở Nhật nó sẽ khô rất chậm “, cô giải thích.
Vì nghệ thuật và kiến thức về sơn mài Việt Nam của cô ở mức uyên thâm nên cô nhận được nhiều sự tôn trọng và thành quả. Cô không chỉ là nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên được ghi danh vào một hiệp hội nghệ thuật uy tín của Việt Nam mà các tác phẩm của cô đã được trưng bày tại các triển lãm trên toàn cầu. Cô nói: “Khi tôi bắt đầu, tôi là một cô gái trẻ và rất khó khăn vì đã có nhiều người kinh doanh sơn mài ở Việt Nam. Nhưng bây giờ tôi cảm thấy tôi có một lợi thế vì là một người nước ngoài. Cũng như người Nhật đang xem xét lại di sản văn hoá của họ nhờ sự quan tâm của người nước ngoài, tôi cũng vậy, tôi có thể giúp người Việt Nam nhìn thấy một phần trong di sản văn hoá vô giá của họ là một hình thức nghệ thuật thực sự. ”