Lý do bí ẩn sau việc người Nhật không có nhiều con cái

Đăng ngày 12/09/2018 bởi iSenpai

Nhiều người cho rằng đó là bởi những người trẻ trong độ tuổi 20 thiếu đi sự lãng mạn và việc phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động, nhưng 1 yếu tố đã bị coi nhẹ chính là vấn đề của những nam thanh niên trẻ muốn tìm những công việc ổn định và lương cao.

Tại Tokyo, dân số Nhật Bản đang giảm dần. Lần đầu tiên kể từ khi chính phủ bắt đầu theo dõi từ hơn một thế kỷ trước, khoảng 1 triệu lượt sinh đã sụt giảm vào năm ngoái, và dân số của đất nước giảm hơn 300.000 người. Nguyên nhân từ lâu đã được đổ lên đầu những người Nhật trẻ tuổi, những người bị gán cho rằng không quan hệ tình dục đủ nhiều, và lên đầu phụ nữ, những người đặt sự nghiệp của mình lên hàng đầu trước khi nghĩ đến việc kết hôn và có một gia đình.

Image result for Why Japanese have so few babies

Nhưng có một giải thích đơn giản hơn về tỉ lệ sinh thấp của đất nước này: Tỷ lệ sinh của Nhật có thể giảm vì có ít cơ hội hơn cho lớp thanh niên, đặc biệt là nam giới, trong nền kinh tế của đất nước. Ở một đất nước mà đàn ông vẫn được coi như trụ cột gia đình và gánh vác việc nuôi sống toàn bộ gia đình, thiếu một công việctốt có thể khiến những người đàn ông này không muốn kết hôn và có con vì họ – và những người bạn đời tiềm năng của họ – biết họ không có khả năng chi trả những chi phí đó.

Anne Allison, giáo sư nhân chủng học văn hóa tại Đại học Duke, người phụ trách biên tập các bài luận học thuật gần đây tại Nhật Bản “Tương lai quý giá” cho biết: “Về vấn đề giới tính, điều này khá phù hợp với xu hướng trên toàn thế giới – đàn ông đang gặp khó khăn hơn. Tỷ lệ sinh giảm, ngay cả tỉ lệ các cặp đôi yêu nhau cũng giảm. Và mọi người sẽ nói lý do số một là do bất an về mặt tài chính. ”

Image result for Why Japanese have so few babies

Điều này có vẻ gây bất ngờ bởi Nhật Bản là một đất nước có nền kinh tế hiện đang phát triển đều đặn, và tỷ lệ thất nghiệp dưới 3 phần trăm. Nhưng các cơ hội kinh tế thu hẹp lại xuất phát từ một xu hướng lớn hơn theo lẽ tự nhiên toàn cầu: sự gia tăng của những công việc không ổn định. Từ những năm sau chiến tranh, Nhật Bản có truyền thống “việc làm cố định”, như các chuyên gia lao động thường gọi, trong đó người đàn ông bắt đầu sự nghiệp của họ với nhiều lợi ích tốt, tăng lương đều đặn và hiểu rằng nếu họ làm việc chăm chỉ, họ có thể giữ công việc của mình cho đến khi nghỉ hưu. Còn bây giờ, theo Jeff Kingston, một giáo sư tại khuôn viên trường Đại học Temple và là tác giả của một số cuốn sách về Nhật Bản, khoảng 40% lực lượng lao động Nhật Bản là “bất định”, nghĩa là họ không làm việc cho các công ty mà họ có việc làm ổn định bảo đảm về nghề nghiệp, và thay vào đó là các công việc tạm thời và bán thời gian với lương thấp và không có phúc lợi đi kèm. (Những công nhân tạm thời này cũng vẫn được tính là có việc làm trong thống kê của chính phủ.) Chỉ có khoảng 20 phần trăm người làm kiểu bất định này có thể chuyển sang công việc cố đinh tại một số thời điểm nào đó trên con đường sự nghiệp của họ. Theo Kingston, từ năm 1995 đến năm 2008, số lượng nhân công cố định của Nhật giảm 3,8 triệu trong khi số lượng nhân công bất định tăng 7,6 triệu.

Những người lao động bất định ở Nhật Bản đôi khi được gọi là “freeter”, là sự kết hợp giữa “freelance” trong tiếng Anh và “arbeiter” trong tiếng Đức, nghĩa là “công nhân”. Theo Kingston, sự tăng số người làm bất định ở Nhật bắt đầu vào những năm 1990, khi Chính phủ đã sửa đổi luật lao động với sự cho phép sử dụng rộng rãi các công nhân tạm thời và những công nhân hợp đồng được thuê bởi các công ty trung gian. Sau đó, khi hiện tượng toàn cầu hóa gây áp lực nhiều hơn khiến các công ty phải cắt giảm chi phí, họ ngày càng dựa nhiều hơn vào lực lượng lao động tạm thời, một xu hướng đặc biệt thịnh trong cuộc Đại suy thoái. “Đây là một bước phát triển mới trong mô hình tuyển dụng của Nhật Bản, vì những sinh viên mới tốt nghiệp thấy khó có được chỗ đứng trên nấc thang sự nghiệp với tư cách là nhân viên cố định”, Kingston và Machiko Osawa, giáo sư tại trường đại học nữ Nhật Bản, đã viết trong bài luận của họ “Rủi ro và hậu quả: Mô hình việc làm thay đổi trong nền kinh tế Nhật Bản”, trong bài Nhật Bản: Tương lai bấp bênh.

Trong một nền văn hóa đặt toàn bộ áp lực vào những người đàn ông làm trụ cột, điều này có ảnh hưởng nghiêm trọng đối với vấn đề hôn nhân và sinh đẻ. Những người đàn ông không có công việc cố định không được coi là các đối tác hôn nhân mong muốn; ngay cả khi một cặp vợ chồng muốn kết hôn, và cả hai đều có việc làm bất định, bố mẹ họ có khả năng sẽ phản đối nó, theo Ryosuke Nishida, một giáo sư tại Viện Công nghệ Tokyo, người đã viết về nạn thất nghiệp trong người lao động trẻ. Chỉ có khoảng 30% lao động bất định ở độ tuổi 30 đã kết hôn, so với 56% nhân viên toàn thời gian cố định ở các công ty, theo nghiên cứu của Kingston. “Nhật Bản có định kiến rằng người đàn ông có nghĩa vụ phải có một công việc cố định,” Nishida chia sẻ. “Nếu bạn tốt nghiệp và bạn không tìm được việc làm như một nhân viên bình thường, mọi người sẽ nhìn nhận bạn như một kẻ thua cuộc thất bại.” Thậm chí còn có một trò chơi đầy sự mỉa mai của Nhật Bản, theo như Nishida nói, gọi là “Trò chơi địa ngục của sự sống”, trong đó những người không thể tranh đấu để có 1 công việc  cố định sẽ chật vật từ đầu tới cuối trò chơi.

 

Phụ nữ tìm kiếm công việc toàn thời gian thì lại thường xuyên chỉ tìm được các công việc không thông dụng, điều này cũng có ảnh hưởng đối với việc phát chăm lo phát triển một gia đình, vì giờ giấc không theo khung cố định và mức lương thấp. Nhưng trở ngại cho hôn nhân sẽ càng lớn hơn nếu một người đàn ông không có được một công việc – bởi theo thống kê thì có khoảng 70% phụ nữ sẽ bỏ việc sau khi sinh con đầu lòng, và sống phụ thuộc vào tiền lương của người chồng trong một thời gian.

Phụ nữ ở các thành phố lớn của Nhật Bản nói rằng họ cảm thấy mệt mỏi bởi sự thiếu hụt những người đàn ông đủ tiêu chuẩn. Ở Tokyo, tại một sự kiện do Zwei, một công ty mai mối tổ chức, có thể thấy có tới hàng chục phụ nữ tụ tập trong một căn phòng nhỏ để tham gia một lớp học nấu ăn gồm các món ăn từ tỉnh Miyazaki, miền nam Nhật Bản. Sự kiện này là một phần của sáng kiến ​​mà Zwei đã đưa ra để làm cho họ quan tâm đến cuộc sống, và nam giới, ở bên ngoài Tokyo. Mô hình kinh doanh của Zwei dựa trên việc kết hợp phụ nữ ở các thành phố lớn của Nhật Bản với nam giới ở các khu vực khác của đất nước, nơi nam giới có nhiều khả năng có việc làm tốt hơn và được coi là đối tác khả thi. Kouta Takada, một thành viên của Zwei nói: “Những người đàn ông ở thành phố này không nam tính và họ không muốn kết hôn.” Một cuộc khảo sát gần đây trong những người Nhật từ 18 đến 34 cho thấy, gần 70% đàn ông chưa lập gia đình và 60% phụ nữ chưa lập gia đình không ở trong một mối quan hệ nào.

Tôi cũng đã đến thăm văn phòng của POSSE, một nhóm được thành lập bởi những sinh viên tốt nghiệp đại học, những người muốn tạo ra một liên đoàn lao động cho giới trẻ. Haruki Konno, chủ tịch của nhóm, nói với tôi rằng một số thanh niên làm những công việc bất định thường trở thành một nhóm người được xã hội gọi là “người tỵ nạn quán café internet” – những người sống trong những căn phòng nhỏ có thể thuê qua đêm tại các quán cà phê internet Nhật Bản. (Shiho Fukada, một nhiếp ảnh gia, đã ghi lại cuộc đời của những “người tị nạn” này). Những người khác có công việc bất định thì sống với cha mẹ hoặc nhờ vào phúc lợi xã hội.

 

POSSE tính toán những nhân viên với việc làm bất định kiếm được trung bình khoảng 1.800 đô la một tháng, nhưng chi tiêu phần lớn số tiền đó vào tiền thuê nhà, trả khoản vay đại học của họ và thanh toán cho các chương trình an sinh xã hội của Nhật Bản. Nhiêu đó không đủ để khiến họ có thể sống dư dả. Khoảng một phần tư sinh viên tốt nghiệp đại học của Nhật Bản – một tỷ lệ tương ứng với tỷ lệ sinh viên đến các trường đại học danh tiếng — có thể tự lập tìm được những công việc tốt cho cuộc sống. Còn những người khác thì phải vật lộn. Những người đàn ông ở độ tuổi 20, họ không có suy nghĩ sẽ có gia đình hay một ngôi nhà. Hầu hết trong số họ cảm thấy rằng nó không một thực tế.” Makoto Iwahashi, một thành viên POSSE khác, chia sẻ.

 

Sự gia tăng tỉ lệ nhân công làm việc “bất định” không chỉ tạo ra vấn đề cho những người làm công việc đó. Nó cũng khiến các công ty cảm thấy rằng họ có thể đối xử với những nhân công “cố định” của họ không tốt, bởi vì những người đó nên cảm thấy may mắn khi có việc làm.” Konno nói. “Biết rằng những người ở độ tuổi 20 và 30 đang tuyệt vọng tìm được việc làm cố định, các công ty thuê rất nhiều bạn trẻ và buộc họ phải làm việc nhiều giờ từng chút một để không phải trả lương làm thêm giờ, giả định rằng hầu hết họ sẽ không thể sống sót trong điều kiện khắc nghiệt.” Konno bày tỏ. Nhật Bản từ lâu đã có một nền văn hóa làm việc quá sức – thậm chí có một từ tiếng Nhật là karoshi, nghĩa là chết vì làm việc quá sức – nhưng Konno nói rằng nó đã trở nên tồi tệ hơn kể từ cuộc Đại suy thoái, khi các công ty đã nhận ra rằng công việc tốt trở nên rất khó tìm ở Nhật Bản, nên họ đã ép nhân viên của họ làm nhiều và vất vả hơn.

Konno đã xuất bản một cuốn sách vào năm 2012 có tên là “Tập đoàn Ác ma: Những con quái vật ăn dần ăn mòn Nhật Bản”, sử dụng cụm từ “Burakku Kigyo” – tạm dịch là “các công ty đen” hoặc “các công ty tội ác” —để mô tả các công ty lợi dụng sức lao động của nhân công theo cách này . Cụm từ đó đã trở thành một từ thông dụng ở Nhật Bản. Một nhóm các nhà báo và những người ủng hộ lao động cho tới nay có xét giải Burraku Kigyo của năm cho công ty đối xử với công nhân tồi tệ nhất. (Trong năm 2015, Seven-Eleven Japan đã giành được danh hiệu.) “Thật khó có thể coi những công việc này như việc làm cố định, và ở những nơi đang thuê nhân viên làm việc, họ có lợi thế để bóc lột công nhân nhiều nhất có thể”, Konno nói.

Kết quả là ngay cả những công việc “tốt” ở Nhật Bản cũng có thể trở nên kinh khủng. Những người có được những công việc này có thể kiếm đủ tiền để hỗ trợ gia đình, nhưng họ thường không có nhiều thời gian để hẹn hò, hoặc làm bất cứ điều gì ngoài công việc, ngủ và ăn. Nhiều người trở nên căng thẳng thường xuyên. Tại POSSE, có một thanh niên tên là Jou Matsubara, người đã tốt nghiệp từ Rikkyo Daigaku, một trường đại học tư danh có uy tín ở Nhật Bản. Matsubara, người xuất thân từ một gia đình lao động, nghĩ rằng anh đã đạt được giấc mơ Nhật Bản khi anh tốt nghiệp đại học và làm việc tại Daiwa House Group, một công ty xây dựng nhà ở của Nhật Bản.

 

Công ty quảng cáo về nó là một nơi tuyệt vời để làm việc, nhưng Matsubara, một thanh niên từng chơi đô vật ở trường đại học, nói rằng mọi thứ bằng chứng đó đều chẳng là gì. Mặc dù nhân viên của công ty được tan làm lúc 7 giờ tối trên giấy tờ, Matsubara cho biết anh này được yêu cầu làm việc đến tận đêm khuya hầu như mỗi ngày. Nhân viên được yêu cầu ký chấm công vào lúc 7 giờ tối, ngay cả khi họ vẫn đang làm việc, và được đưa cho iPad để họ có thể chấm công hết ngày như vậy ngay cả khi họ đã ra khỏi văn phòng để dự các cuộc gặp hay cuộc họp bên ngoài công ty. Nếu họ không ký, họ sẽ nhận được một cuộc gọi từ điện thoại di động yêu cầu họ ký ngay lập tức nhưng cứ tiếp tục làm việc, ông nói. “Lượng thời gian bạn đang thực sự làm việc và lượng thời gian được ghi lại mà bạn đang làm việc hoàn toàn không liên quan đến nhau”. Matsubara gần như không có thời gian nghỉ, và được yêu cầu tham gia các lớp học để nhận chứng chỉ bất động sản vào các ngày thứ Ba và thứ Tư, đó là những ngày mà trước khi vào công ty anh đã được bảo rằng là anh được tự do. Lối sống này làm hẹn hò biến thành điều không thể. Người phụ nữ gần gũi nhất với anh ta, là khi ông chủ của anh ta kéo anh ta đến các câu lạc bộ hay quán rượu để chạy vặt nọ kia.

Sau một năm, những giờ làm việc kéo dài và căng thẳng bắt đầu ảnh hưởng đến sức khỏe của anh. Matsubara mắc chứng khó ngủ, và bắt đầu nghe thấy những giọng nói trong đầu. Anh rơi vào trầm cảm, bởi vì kinh nghiệm mà anh ta mong đợi từ một công việc cố định và kinh nghiệm anh ta thu được quá khác biệt. Matsubara nói rằng anh ta đã được đưa đến bệnh viện nhiều lần trong xe cứu thương vì không thể thở được. Cuối cùng, anh bị suy nhược thần kinh. Anh ta nói công ty buộc anh ta phải từ chức, và sau đó bắt anh trả lại số tiền nhà mà anh ta đã tiết kiệm được khi còn ở trong ký túc xá công ty. (Daiwa House không bình luận thêm gì.) Matsubara hiện đang sống nhờ phúc lợi. “Cuộc sống của tôi diễn ra suôn sẻ và rồi bị phá hủy một cách có hệ thống bởi Daiwa House,” anh nói. Anh ta cũng ước tính rằng trong số 800 người bắt đầu cùng anh tại Daiwa House, có khoảng 600 người đã bỏ việc.

 

Tất nhiên, Nhật Bản không phải là quốc gia duy nhất có những công nhân nói rằng họ cảm thấy bị bóc lột và làm việc quá sức bởi các nhà tuyển dụng. Đây cũng không phải là quốc gia duy nhất đã chứng kiến ​​sự gia tăng về lao động tạm thời trong nền kinh tế ngày nay. Nhưng có một vài điểm khác biệt giữa Nhật Bản với Hoa Kỳ và các nền kinh tế phát triển khác. Thứ nhất là việc làm cố định vẫn có giá trị sâu sắc trong văn hóa Nhật Bản, nó ăn sâu tới mức mà những người không thể tìm đc công việc cố định, bất kể trình độ bằng cấp của họ thế nào, thường cũng sẽ bị chỉ trích thậm tệ theo cách mà những người tương tự ở các nước khác không bị. “Đó là một xu hướng, khi ai đó không có việc làm, đó là lỗi của họ,” Giáo sư Nishida cho hay.

 

Thứ hai, Nhật Bản tồn tại một nền văn hóa mà trong đó công việc vất vả và làm việc nhiều giờ được chấp nhận rộng rãi và ai đó sẽ bị coi là thô lỗ nếu họ tan làm trước sếp của mình. Những người phàn nàn về việc phải làm việc nhiều giờ có thể không tìm thấy nhiều sự thông cảm từ bạn bè và các thành viên trong gia đình, mà chỉ có chính phủ mới ra sức chống lại việc này. Cuối cùng, Nhật Bản là một quốc gia mà các liên đoàn lao động khá non nớt, và thường tập trung vào việc hợp tác với các công ty và duy trì các công việc tốt đang tồn tại, thay vì chiến đấu thay mặt tất cả các công nhân, theo Konno thì “Các công đoàn ở đây dành cho các công ty – chúng không hiệu quả”, ông nói.

Nhưng các vấn đề của Nhật Bản lại có nhiều ảnh hưởng lên Hoa Kỳ, nơi mà các công việc bất định khá phổ biến, và nơi mà sức mạnh của sự đoàn kết ngày càng yếu đi mỗi năm. Đàn ông đang phải vật lộn ở nhiều vùng của đất nước vì sự suy giảm của sản xuất và sự bùng phát của các loại chất gây nghiện. Và các nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi triển vọng kinh tế của nam giới suy giảm, thì cơ hội kết hôn của họ cũng giảm. Tỷ lệ sinh của Hoa Kỳ đã ở mức thấp lịch sử – và điều kiện kinh tế tồi tệ hơn của nam giới nước này có thể làm giảm thêm nữa.

Chính quyền của Thủ tướng Shinzo Abe đã chú ý đến sự gia tăng của các công việc xấu ở Nhật Bản, nhưng các nhà phê bình nói rằng chính quyền vẫn chưa làm đủ. Một hội đồng cải cách lao động của chính phủ đã đề xuất giới hạn số giờ làm thêm mà các công ty hợp pháp có thể yêu cầu mọi người làm việc ở mức 100 giờ mỗi tháng. Và năm nay, lần đầu tiên, chính phủ Nhật Bản cũng đã công bố danh sách hơn 300 công ty đã vi phạm luật lao động, hy vọng rằng các công ty khi bị nêu tên công khai sẽ bị xấu hổ dẫn tới những thay đổi trong cách thức của họ

Chính quyền Abe và Nhật Bản nói chung, từ lâu đã tuyên bố sẽ giải quyết các vấn đề về tỷ lệ sinh giảm của đất nước này. Nhiều điều trong số những cam kết của ông này tập trung vào việc giúp đỡ phụ nữ cân bằng công việc và gia đình, mà chắc chắn là một phần của vấn đề. Nhưng không phải tất cả: Mặc dù người đàn ông Nhật Bản từ lâu đã có nhiều quyền lực kinh tế và xã hội hơn phụ nữ của đất nước, họ cũng cần sự giúp đỡ để tìm kiếm sự ổn định trong một nền kinh tế đang thay đổi.

Týt (Theo The Atlantic)

Trả lời