1. Những con số khó hiểu
Kanji số đếm là một trong những chữ đầu tiên mà bất kỳ người học tiếng Nhật nào cũng học, tuy nhiên đây cũng là một trong những chữ khó đọc nhất. Chỉ riêng chữ “一” đã có trên năm cách đọc tùy thuộc vào từ điển bạn sử dụng. Và khi bạn nghĩ mình đã biết hết cách đọc thì liệu bạn đã biết cách đọc những địa danh dưới đây chứ?
十八 女 – một địa điểm tại tỉnh Tokushima, một cụm từ đơn giản với “jū”, “hachi” và “onna”, vì vậy khi đặt cùng nhau sẽ có tên là “Jūhachionna”? Không hề, cụm từ này được phát âm là “Sakari”, thậm chí cũng không hề dính dáng gì đến những âm như “tō”, “ya” hay “jo” thường thấy.
Không chỉ vậy, vẫn còn những địa điểm khác với cách đọc sẽ khiến bạn thấy nghi ngờ, ví dụ như 五百 井 ở tỉnh Nara được đọc là “Ioi”, 十六 島 町 ở tỉnh Shimane được đọc là “Uppurui-cho”, hay 六合 ở tỉnh Gunma được đọc là “Kuni” và cuối cùng là 一口 ở Kyoto được gọi là “Imoarai”.
2. Âm câm
Khác với tiếng Anh, chúng ta quen với việc phát âm những âm câm như “e”, “k”,… nhưng trong tiếng Nhật, không có những ký tự thực sự là âm câm, hầu hết các chữ cái đều được phát âm chứ không chỉ để trang trí.
Cho đến khi bạn bắt đầu đọc địa danh. Đầu tiên là 百舌 鳥 ở tỉnh Osaka, một địa danh với ba chữ kanji và bạn nghĩ cách đọc của cái tên này có ít nhất ba âm tiết. Không hề, nơi đây được gọi là “Mozu”, chỉ có hai âm tiết. Thật kỳ lạ nhỉ?
Những địa danh có kanji được phát âm câm rất hiếm, nhưng rất nhiều trong số đó dường như trùng lặp với những địa danh có cách đọc số kỳ lạ. Như 五十 部 町 ở tỉnh Tochigi được phát âm là “Yobechō”, hay như 七五 三 場 ở tỉnh Ibaraki được phát âm là “Shimeba” cũng tương tự.
3. Những địa danh phủ định
Như những gì đã nói, có lẽ bạn đã thấy sự ngẫu nhiên và kỳ lạ trong việc phát âm những tên gọi địa danh tại Nhật. Tiếp đây là việc kết hợp “不” để tạo nên những địa danh. Ví dụ đầu tiên là 不老 ở tỉnh Fukui, hai chữ kanji này thường được đọc là “fu” và “rō”, nhưng cách đọc chính xác của cụm từ này chính là “Oizu”, được hình thành từ sự phủ định của động từ “oiru” (có nghĩa là “già đi”).
Cũng có những địa danh khác được tạo thành “不”, tạo nên những địa danh với ý nghĩa khá kỳ lạ, như 不明 門 通 ở tỉnh Kyoto, được đọc là “Akezu no Mon dōri”, có thể hiểu đại khái là “Con đường có cổng không rõ ràng”.
4. Những cái tên không liên quan
Sự ngẫu nhiên trong phát âm những địa danh không chỉ nằm trong kanji số, kanji đơn mà còn nằm trong ký hiệu đi kèm, lấy ví dụ như 行々 林 ở tỉnh Chiba, một cụm từ với dấu lặp lại chữ kanji ở giữa, thường được dùng để nhân đôi âm của chữ kanji đứng trước nó, như 時々 (tokidoki) hay 別々(betsubetsu). Trong trường hợp này, địa danh này được phát âm là “Odoro-bayashi”, với bayashi là cách đọc của chữ kanji cuối cùng và cái tên “Odoro” để đọc 行々có vẻ hơi kỳ lạ.
Sự kỳ lạ của những địa danh đôi khi không chỉ nằm ở cách đọc, mà còn nằm ở cách giải nghĩa của cách cụm từ. Dưới đây là những địa danh với cách đọc và ý nghĩa không giống nhau:
人里 ở quận Tokyo được phát âm là “Henbori”. Hay 和布 ở tỉnh Fukui phát âm là “Mera”, trong khi chữ kanji là “hòa bình” và “vải” thì cách đọc lại mang ý nghĩa là “bùng cháy thành ngọn lửa, tiếng lách tách khi lửa cháy.” 月出里 ở Ibaraki được phát âm là “Sudachi”, trong khi nghĩa của các từ kanji là “thị trấn mặt trăng rời đi” thì cách đọc lại có nghĩa “trở nên độc lập / rời tổ”. Và đặc biệt là 稚内 ở tỉnh Hokkaido có tên là “Wakkanai”, cụm từ này không chỉ có cách đọc kỳ lạ của “稚”, mà còn có thể dịch thành “Tôi không biết”, một cái tên kỳ lạ.
5. Bất cứ nơi nào ở Okinawa
Một nơi bạn có thể tìm thấy được kha khá các địa danh kỳ quặc chính là Okinawa. Lấy ví dụ như 東風平, những chữ kanji quen thuộc như “tō”, “fū” và “hei”, nhưng cách đọc của nó lại một lần nữa chẳng liên quan gì cả. 東風平 được phát âm là “Kochinda”.
Dạo quanh Okinawa, bạn còn có thể tìm thấy những địa điểm khác như 北 谷 phát âm là “Chatan”, 南風原 phát âm là “Haebaru”, 勢 理 客 phát âm là “Jitchaku” và 喜屋武 được phát âm đơn giản chỉ là “Kyan”.
Nhưng có một địa danh có thể xem là có cách đọc kỳ lạ nhất tại Okinawa, chính là 保栄茂 với ba chữ kanji và cách đọc chỉ đơn giản là hai âm tiết “Bin”.
Tham khảo: Soranews24