Phương ngữ trong ngôn ngữ Nhật Bản được phân chia thành hai nhánh chính, phương ngữ Đông Nhật Bản (bao gồm Tokyo) và phương ngữ Tây Nhật Bản (bao gồm Kyoto), và một số nhánh bổ sung là phương ngữ Kyushu và phương ngữ Hachijō, trong đó Hachijō có lẽ là phương ngữ khác biệt nhất so với tất cả. Mặc dù thỉnh thoảng vẫn được nhắc tới, nhưng ngôn ngữ Ryukyuan của tỉnh Okinawa và quần đảo phía Nam của tỉnh Kagoshima, một nhánh riêng biệt của gia đình Japonic, thực chất lại không phải là phương ngữ.
Lịch sử
Các biến thể theo vùng miền của ngôn ngữ Nhật Bản được thừa nhận từ thời tiếng Nhật Thượng đại. Man’yōshū là một tập thơ tiếng Nhật cổ nhất còn tồn tại, nó bao gồm các bài thơ được viết bằng phương ngữ của thủ đô (Nara) và phía đông Nhật Bản, ngoài ra những phương ngữ khác không được ghi chép lại. Các đặc điểm được ghi lại của phương ngữ Đông Nhật Bản hiếm khi được thừa hưởng bởi phương ngữ hiện đại, ngoại trừ một vài hòn đảo ngôn ngữ như đảo Hachijo. Vào thời tiếng Nhật Trung cổ, chỉ có những ghi chép mơ hồ như “phương ngữ nông thôn rất thô, chưa được gọt giũa”. Tuy nhiên, vào thời tiếng Nhật Trung thế, các đặc điểm của phương ngữ vùng miền đã được ghi chép lại trong một vài cuốn sách, ví dụ như Arte da Lingoa de Iapam, và các đặc điểm này khá giống với phương ngữ hiện đại. Sự đa dạng các phương ngữ Nhật Bản đã phát triển một cách rõ rệt trong suốt thời đại tiếng Nhật đầu hiện đại (thời kỳ Edo) bởi vì nhiều lãnh chúa phong kiến đã hạn chế sự di chuyển của con người đến và đi từ các thái ấp khác (thái ấp: phần ruộng đất của quan lại, công thần, hay quý tộc phong kiến được vua ban cấp). Từ thời kỳ Nara tới thời kỳ Edo, phương ngữ Kinai (nay là trung tâm Kansai) là hình thái tiêu chuẩn trên thực tế của tiếng Nhật, và phương ngữ của thời Edo (nay là Tokyo) đã tiếp quản vào cuối thời kỳ Edo.
Cùng với sự hiện đại hóa vào cuối thế kỷ 19, chính phủ và giới trí thức đã đẩy mạnh việc thiết lập và truyền bá ngôn ngữ tiêu chuẩn. Các ngôn ngữ và phương ngữ vùng miền đã bị đàn áp và xem nhẹ, và vì vậy, những người dân địa phương đã có cảm giác tự ti về những thứ ngôn ngữ “xấu” và “đáng hổ thẹn” của mình. Bởi vì ngôn ngữ dùng trong giảng dạy là tiếng Nhật tiêu chuẩn, nên một số giáo viên đã bị phạt cho việc sử dụng các ngôn ngữ địa phương trong giảng dạy, đặc biệt là tại các vùng Okinawa và Tohoku. Từ những năm 1940 tới những năm 1960, thời kỳ của chủ nghĩa dân tộc Shōwa và phép màu kinh tế sau chiến tranh, sự thúc đẩy việc thay thế các biến thể ngôn ngữ theo vùng miền bằng tiếng Nhật tiêu chuẩn đã đạt tới cao độ.
Ngày nay, tiếng Nhật chuẩn đã lan rộng ra khắp quốc gia, và bởi vì giáo dục, truyền hình, sự mở rộng của các phương tiện và sự tập trung dân cư tại thành phố… mà các biến thể ngôn ngữ theo vùng miền truyền thống đang ngày càng suy tàn. Mặc dù vậy, chúng vẫn không hoàn toàn bị thay thế bởi tiếng Nhật chuẩn. Cùng với dòng chảy của Nhật ngữ tiêu chuẩn, biến thể ngôn ngữ theo vùng miền ngày nay đã được coi trọng như một nét đẹp “hoài cổ”, “chân tình” và là dấu hiệu của “bản sắc địa phương quý giá”, và nhiều người nói phương ngữ vùng miền đã dần dần vượt qua được cảm giác tự ti về cách nói chuyện tự nhiên của họ. Mối liên hệ giữa các biến thể ngôn ngữ vùng miền và tiếng Nhật tiêu chuẩn đã tạo ra các hình thái ngôn ngữ vùng miền mới giữa những người trẻ, ví dụ như tiếng Nhật Okinawan.
Hệ thống ngôn ngữ
Có một vài cách tiếp cận tương tự chung để phân loại các phương ngữ Nhật Bản. Misao Tōjō đã phân loại phương ngữ Nhật Bản đại lục thành 3 nhóm: phương ngữ Đông, Tây và Kyūshū, còn Mitsuo Okumura lại phân loại phương ngữ Kyushu như là một phân lớp của phương ngữ Tây Nhật Bản. Các lý thuyết này phần lớn dựa trên những sự khác biệt về ngữ pháp giữa đông và tây, nhưng dựa trên các hệ thống giọng, âm vị và chia động từ, Haruhiko Kindaichi lại phân chia tiếng Nhật đại lục thành 3 nhóm tròn đồng tâm: vòng bên trong (Kansai, Shikoku…), vòng ở giữa (Tây Kantō, Chūbu, Chūgoku…) và vòng bên ngoài (Đông Kantō, Tōhoku, Izumo, Kyushu, Hachijō…).
Phương ngữ Đông Nhật Bản màu xanh da trời, Tây Nhật Bản màu vàng nâu. Phương ngữ ở khu vực xanh da trời mang cả đặc điểm của miền Đông và miền Tây. Phương ngữ Kyushu màu cam, phương ngữ phía Nam Kyushu khá là khác biệt với các vùng khác.
Phương ngữ Đông và Tây Nhật Bản
Có một sự khác biệt chính tồn tại giữa tiếng Nhật phía Đông và phía Tây. Đó là sự phân chia lâu đời diễn ra cả trong ngôn ngữ và văn hóa. Bản đồ trong khung nằm ở đầu trang này phân chia thành hai đường âm vị học theo chiều dài. Phía Tây của đường phân chia là giọng cao độ kiểu Kansai phức tạp hơn, và phía Đông đường phân chia, là giọng kiểu Tokyo đơn giản hơn, mặc dù giọng Tokyo cũng xuất hiện ở phía Tây xa hơn, bên kia của Kansai. Tuy nhiên, đường đồng ngữ này cũng phần lớn phù hợp với một vài sự khác nhau về ngữ pháp: Phía tây của đường đồng ngữ giọng cao độ
+ Dạng hoàn thành của các động từ đuôi -u ví dụ như harau “trả/ thanh toán” là harōta (hoặc số ít là haruta), thay vì là haratta như phương ngữ phía Đông (tiêu chuẩn).
+ Dạng hoàn thành của các động từ đuôi -su ví dụ như otosu “đánh rơi” theo tiếng Nhật phía Tây là otoita (phần lớn ngoại trừ phương ngữ Kansai) và theo phía Đông là otoshita
+ Dạng mệnh lệnh của các động từ đuôi -ru (ichidan) ví dụ như miru ‘nhìn’ là miyo hoặc mii còn ở phía Đông là miro (hoặc số ít là mire, phương ngữ Kyushu cũng sử dụng miro hoặc mire)
+ Dạng phó từ của các động từ có chức năng như tính từ kết thúc bằng đuôi -i ví dụ như hiroi ‘rộng rãi’ là hirō (hoặc số ít là hirū) cũng như hirōnaru, còn phía Đông là hiroku và hirokunaru
+ Dạng phủ định của động từ là -nu hoặc -n thay vì -nai hoặc -nee, và sử dụng một gốc động từ khác; do đó suru ‘làm’ là senu hoặc sen thay vì shinai hoặc shinee (ngoại trừ đảo Sado sử dụng shinai)
+ Từ liên hệ (từ/ cụm từ dùng để kết nối giữa chủ ngữ và bổ ngữ trong câu) là da trong tiếng Nhật phía Đông và ja hoặc ya trong tiếng Nhật phía Tây, mặc dù Sado cũng như một vài phương ngữ ở các vùngkhác nằm ở xa phía Tây ví dụ như San’in lại sử dụng da.
+ Động từ ‘tồn tại’ trong phương ngữ Đông Nhật là iru và Tây Nhật là oru, phương ngữ Wakayama sử dụng aru và một số thổ ngữ Kansai và Fukui sử dụng cả hai.
Bản đồ các loại cao độ của giọng trong tiếng Nhật. Sự phân chia giữa các giọng Kyoto và Tokyo được sử dụng như là ranh giới tiếng Nhật phía Đông – Tây trong bản đồ chính.
Các đường đồng ngữ hệ từ. Màu xanh da trời -da cam da/ja tương ứng với sự phân chia cao độ.
(xanh da trời: da, đỏ: ja, vàng: ya; cam và tím: tượng trưng cho đỏ + vàng và đỏ + xanh; trắng: cả ba.)
Mặc dù các đường đồng ngữ về ngữ pháp này rất gần với đường cao độ của giọng được đưa ra trên bản đồ, nhưng chúng lại không hoàn toàn tương đồng. Ngoại trừ đảo Sado, nơi sử dụng shinai và da của phương Đông, tất cả các đặc điểm của phương ngữ phía Tây đều được tìm thấy tại phía Tây đường phân chia cao độ của giọng, tuy một vài đặc điểm của phương ngữ phía Đông cũng có thể xuất hiện tại phần phía Tây xa hơn (da tại San’in, miro tại Kyushu). Phía Tây đường giọng cao độ có một khu vực các phương ngữ trung gian, là nơi có sự kết hợp của các phương ngữ phía Đông và phía Tây. Phương ngữ Echigo có harōta, mặc dù không dùng miyo, và một nửa trong số chúng cũng dùng hirōnaru. Tại Gifu, tất cả các đặc điểm phía Tây Western đều được tìm thấy ngoại trừ giọng cao độ và harōta; Aichi có miyo và sen, và ở phía Tây (phương ngữ Nagoya) có hirōnaru: Những đặc điểm này đủ đáng kể để Toshio Tsuzuku phân loại phương ngữ Gifu–Aichi như là phương ngữ phía Tây Nhật Bản. Phía Tây Shizuoka (phương ngữ Enshū) có từ miyo là đặc điểm duy nhất của phương ngữ Tây Nhật Bản.
Phương ngữ Kansai phía Tây Nhật Bản là một phương ngữ rất phổ biến khi Kyoto còn là thủ đô của nước Nhật, và các hình thái của phía Tây đã được tìm thấy trong ngôn ngữ văn học cũng như các cách diễn đạt trang trọng của phương ngữ Tokyo hiện đại (sau đó là tiếng Nhật tiêu chuẩn), ví dụ như dạng phó từ ohayō gozaimasu, động từ oru, và thể phủ định lịch sự -masen.
Tiếng Kyushu
Phương ngữ Kyushu được phân chia thành 3 nhóm: phương ngữ Hichiku, phương ngữ Hōnichi và phương ngữ Satsugu (Kagoshima), và có một vài điểm đặc biệt như sau:
+ Như đã đề cập ở phía trên, động từ mệnh lệnh theo phương ngữ Đông Nhật là miro ~ mire thay vì Tây Nhật Bản dùng miyo
+ Hichiku và Satsugu sử dụng tính từ đuôi -ka thay vì đuôi -i như ở Đông và Tây Nhật Bản, ví dụ từ ‘lạnh” là samuka thay vì samui, ‘xấu xí’ là kuyaka thay cho minikui và ‘nóng’ là nukka thay cho atsui.
+ Danh từ hóa và trợ từ để hỏi sử dụng là “to”, ngoại trừ Kitakyushu và Oita, đối lập với phía Tây và phía Đông dùng “no”, ví dụ: tottō to? thay vì totte iru no? ‘bạn đang dùng nó?’ và iku to tai hoặc ikuttai thay cho iku no yo.
+ Trợ từ chỉ hướng của một hành động có tính di chuyển (tiếng Nhật tiêu chuẩn là e và ni), phương ngữ phía đông Tohoku sử dụng một trợ từ tương tự là sa
+ Hichiku và Satsugu sử dụng các vĩ tố kết thúc câu thể hiện sự nhấn mạnh tai và bai (tiếng Nhật chuẩn là yo)
+ Trợ từ chỉ sự nhượng bộ batten thay cho dakedo ‘nhưng, tuy nhiên’ được dùng tại Hichiku và Satsugu, phương ngữ phía Đông Tohoku Aomori có trợ từ tương tự là batte
+ /e/ được phát âm là [je] và các phụ âm vòm hóa s, z, t, d, ví dụ như mite [mitʃe] và sode [sodʒe], mặc dù s, z (sensei [ʃenʃei]) có cách phát âm khá bảo thủ (từ thời tiếng Nhật Trung thế) tại một số khu vực rải rác khắp Nhật Bản.
+ Giống như một vài thổ ngữ ở Shikoku và Chugoku, thường không thấy ở nơi nào khác, trợ từ đối cách o chia các âm tiết của một danh từ: honno hoặc honnu thay cho hon-o ‘quyển sách’, kakyū thay cho kaki-o ‘quả hồng vàng’.
+ Âm /r/ thường bị lướt qua khi đọc, ví dụ koi nghĩa là ‘cái này’ (tiếng Nhật phía Đông và phía Tây là kore).
+ Dạng yếu của nguyên âm rất hay thường xuyên xảy ra, đặc biệt là ở Satsugu và quần đảo Gotō, ví dụ sử dụng in thay cho inu ‘con chó’ và kuQ thay cho kubi ‘cái cổ’
Much of Kyushu either lacks pitch accent or has its own, distinctive accent. Kagoshima dialect is so distinctive that some have classified it as a fourth branch of Japanese, alongside Eastern, Western, and the rest of Kyushu.
Phần lớn tiếng Kyushu vừa thiếu cao độ của giọng lại vừa có chất giọng riêng, giọng đặc biệt. Phương ngữ Kagoshima đặc biệt tới nỗi mà nhiều người đã phân loại nó như là một nhánh thứ 4 của tiếng Nhật, bên cạnh phía Đông, phía Tây và phần còn lại của Kyushu.
Tiếng Hachijō
Hachijō là phương ngữ được nói tại Hachijō-jima và Aogashima, các đảo phía nam của Tokyo, cũng như quần đảo Daitō ở phía đông của Okinawa. Phương ngữ Hachijō khá tách biệt và đôi khi được xem là một nhánh chính của tiếng Nhật. Nó vẫn giữ được những đặc điểm cổ xưa được thừa hưởng từ phương ngữ Đông Nhật Bản.
Tham khảo từ WIkipedia