Hikikomori là gì?

Đăng ngày 01/03/2017 bởi iSenpai

 

(Shinden14- Japan Info) – Gần 2.000.000 người Nhật trẻ tuổi đang biến mất. Họ không làm việc, họ không tham gia vào đời sống xã hội, họ đã “trốn” một thời gian dài. Những đối tượng này phần lớn là thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 15 đến 34. Những người trẻ này đột nhiên bỏ học hay bỏ sự nghiệp đầy hứa hẹn, tự giam mình trong phòng.

Có vẻ như đây là một vấn đề cực lớn? Bạn có thể nghĩ “Sao tôi chưa nghe nói về điều này nhỉ?” Vâng, có thể bạn như vậy. Nhưng trước đây nó được gọi bằng một cái tên khác. Sự biến mất này thường được gọi bằng thuật ngữ Nhật Bản “hikikomori (引 き こ も り)” hoặc “Shut-in” (đóng cửa phòng).  Những thanh niên này không thực sự biến mất, họ chỉ tự khóa mình trong phòng và từ chối bước ra ngoài thế giới.

Tại sao hikikomori lại là một vấn đề lớn ở Nhật Bản? Và hikikomori có thể dẫn Nhật Bản tới một tương lai thảm họa như thế nào? Tổn thất thực sự của hikikomori mà không ai nói đến là gì?

Một căn bệnh không có chẩn đoán

Theo binh pháp Tôn Tử  “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”. Điều này dẫn chúng ta đến một trong những phần khó khăn nhất khi thảo luận về hikikomori bởi không ai thực sự biết đó là gì.

Hikikomori không phải là một chẩn đoán bệnh, mà chỉ là tên của một vấn đề xã hội. Một trong những lĩnh vực mà Nhật Bản thực sự tụt hậu so với nhiều nước phương Tây là tâm lý. Sức khỏe tinh thần được coi là một chủ đề khá cấm kỵ. Nhiều người Nhật khá lưỡng lự khi chia sẻ vấn đề của họ với người khác. Tác giả bài viết này có một người bạn đang vật lộn với chứng trầm cảm. Tôi đã nói với người này hãy nói chuyện với bác sĩ, nhưng người này kịch liệt từ chối. Tác giả đã nói chuyện với cha mẹ của người này và họ có vẻ giận tôi vì đã gợi ý điều đó. Dù đã cố gắng giải thích rằng trầm cảm là một vấn đề phổ biến và không có gì phải xấu hổ cả vì ngay cả mẹ Teresa đôi khi cũng bị những cơn trầm cảm trầm trọng nhưng họ đã tỏ thái độ rằng người bạn này chỉ cần “gamann suru (我 慢 す る)” hay “chịu đựng“.

Điều này giống với phản ứng thông thường đối với các vấn đề sức khỏe tinh thần ở Nhật Bản. Vì lý do đó, hầu hết các trường hợp hikikomori không được báo cáo. Theo một cuộc thăm dò do Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Nhật Bản tiến hành, ước tính có gần 200.000 đến 500.000 trường hợp hikikomori, nhưng tất cả các chuyên gia trong lĩnh vực này đã chế giễu con số đó. Họ ước tính con số thấp nhất là 700.000 trường hợp và một số nhà nghiên cứu còn đưa ra con số là 2.000.000 người. Một số nhà nghiên cứu cho rằng đó là bởi sự dè dặt của các bậc cha mẹ trong việc để con cái của họ có được sự trợ giúp chuyên nghiệp, một nhóm nhỏ những người tự nhốt mình có thể bị vấn đề tâm lý có thể chữa được, giống như hội chứng Asperger, tâm thần phân liệt, trầm cảm hưng, hoặc các vấn đề tương tự như vậy.

Hikikomori,_Hiasuki,_2004

 

Hikikomori là gì?

Vài năm trước, tôi sống ở nhà bố mẹ vợ. Đây là ngôi nhà thơ ấu của vợ tôi vì vậy tới thời điểm đó họ đã sống ở đây gần 20 năm. Mẹ vợ tôi là cựu chủ tịch của PTA (hội phụ huynh – giáo viên) và biết tất cả mọi người. Vì vậy, bà ấy bắt đầu công việc của các bà nội trợ buồn chán – nói xấu hàng xóm. Tôi giúp mẹ vợ tôi làm vườn ở bên ngoài khi bà ấy gặp một người hàng xóm.

 

Người hàng xóm nhìn xung quanh và thấp giọng nói: “Bà có nghe gì về con trai bà X không?”

“Y- Chan à? Không. Chuyện gì thế?” Mẹ vợ tôi trả lời.

“Này, tôi nghe nói nó trượt đại học, giờ thì tự nhốt mình trong phòng, không ra ngoài hơn 3 tháng rồi!”

Đây là một trường hợp khá điển hình của hikikomori. Một người trẻ tuổi, thường là nam giới, gặp thất bại, bị bắt nạt, hoặc đối mặt với các áp lực xã hội khác, liền tự nhốt mình trong phòng. Họ nhốt mình nhiều tháng, thậm chí là nhiều năm. Nhiều trường hợp, người mẹ sẽ phải mang thức ăn lên tận cửa phòng họ vì họ thậm chí không ăn cùng gia đình. Họ ở trong phòng lướt web, chơi game, đọc truyện tranh.

Trong trường hợp khả quan, sau một vài ngày giảm nhiệt, những người trẻ sẽ đi ra ngoài và trở lại cuộc sống bình thường. Trong trường hợp nghiêm trọng hơn, có thể mất vài tháng hoặc thậm chí là vài năm để trở lại. Tôi xem một chương trình tin tức gần đây nói về một người đàn ông trở thành hikikomori khi 20 tuổi, vẫn đang sống cô lập cho tới ngày hôm nay và giờ ông đã 50 tuổi!

Nguyên nhân dẫn tới Hikikomori?

Như đã đề cập trước đó, các trường hợp điển hình của hikikomori là học sinh trung học hoặc sinh viên đại học trượt kỳ thi lớn, bị bắt nạt, sau đó rút lui khỏi xã hội. Nhưng đây là những trường hợp đơn giản. Hikikomori có thể bất ngờ, nhưng thường tinh tế hơn. Các thanh thiếu niên từ từ rút lui khỏi thế giới, từng bước một, cho đến khi họ hoàn toàn cô lập bản thân. Tôi nghe nói về trường hợp như vậy của một cô bé 10 tuổi, trong khoảng thời gian vài năm, đã bỏ xa tất cả mọi người và mọi thứ vì những điều mà một người bạn nói với em ấy khi em 10 tuổi !!!

Hầu hết các nhà tâm lý học tin rằng một trong những nguyên nhân gốc rễ của hikikomori là “sekentei (世間体)” – chỉ danh tiếng của mỗi người trong cộng đồng và áp lực để gây ấn tượng với người khác. Đây là một cấu trúc xã hội vô cùng quan trọng trong xã hội Nhật Bản.

Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, thế hệ sau chiến tranh đã phải làm việc chăm chỉ để xây dựng lại Nhật Bản gần như gục ngã bởi cuộc chiến tranh tồi tệ nhất trong lịch sử của nhân loại. Bằng những nỗ lực của mình, họ đã đưa Nhật Bản trở thành một cường quốc kinh tế, tạo ra một thành tựu mà thế hệ tương lại không bao giờ có thể được vượt qua được. Bạn có thể nói họ đã quá thành công. Nền kinh tế Nhật Bản rơi vào tình trạng trì trệ trong thập niên 80, không thế hệ bắt đầu nào hy vọng đạt được những thành tựu của cha mẹ hoặc ông bà họ. Tuy nhiên, vẫn còn có những kỳ vọng từ cha mẹ và ông bà của họ để “xây dựng một tương lai tốt hơn.”

Trong khi hầu hết những người trẻ tuổi Nhật Bản đối phó với áp lực này ở các mức độ khác nhau, thì một số không thể làm được. Và khi họ thất bại, họ cảm thấy như  hoàn toàn thất bại và bắt đầu xa lánh xã hội. Còn nữa, việc xa lánh xã hội khiến cảm giác mất sekentei trở nên mạnh hơn, và lại càng thôi thúc họ xa lánh xã hội. Vì vậy, bắt đầu một chu kỳ lặp đi lặp lại luẩn quẩn.

So sánh điều này với trường hợp của người béo phì. Họ bắt đầu ăn vì họ căng thẳng hay không vui. Sau đó, họ bắt đầu tăng cân. Họ trở nên căng thẳng hơn hay không vui vì tăng cân, và họ lại ăn nhiều hơn khiến họ tăng cân nhiều hơn. Và cứ như vậy…

Tuy nhiên, sekentei không phải là yếu tố duy nhất gây ra hikikomori. Còn có một vấn đề khác. Khi bạn đọc bất cứ điều gì về hikikomori, bạn sẽ thấy thuật ngữ “amae (甘え)”- sự lệ thuộc. Bạn mong muốn được chăm sóc bởi người mà bạn yêu thương, để được đối xử nhẹ nhàng. Với hikikomori, chủ đề quay trở lại với tính trẻ con. Họ không lau chùi, không muốn sống độc lập. Họ sẽ rất hung hãn nếu không được đáp ứng theo ý mình. Họ hành động giống tôi hồi 2 tuổi.

Ở Nhật, giữa mẹ và con trai, đặc biệt là con trai cả, có mối quan hệ rất thú vị. Ở Mỹ các bậc cha mẹ thường rất khắt khe với đứa con đầu tiên, trong khi ở Nhật Bản thì lại ngược lại. Tôi đã nhìn thấy một chàng trai trẻ đấm thẳng vào mặt mẹ mình, và bà mẹ phản ứng yếu ớt “Này, con đừng làm thế”. Nhiều bà mẹ của những người trẻ – những người xa lánh thế giới – sẽ liên tục bào chữa cho con mình. Họ sẽ giúp con mình che giấu những hậu quả của hikikomori. Họ giữ bí mật với bạn bè, gia đình và thậm chí cả vợ/chồng.

Tôi nghĩ rằng trong trường hợp này, amae là tất yếu. Người thanh niên trẻ tuổi muốn được chăm sóc và các bà mẹ có bản năng nuôi dưỡng tự nhiên. Họ cảm thấy nếu họ quá mạnh mẽ hay nghiêm khắc, họ sẽ mất đi mối quan hệ với con mình. Tôi nghĩ rằng nhiều phụ nữ Nhật Bản là các bà nội trợ phụ thuộc, phần nào muốn được con cái công nhận. Theo nhiều cách, họ muốn chúng phụ thuộc vào họ. Họ muốn được khao khát và yêu thương. Vì vậy, đối với những người phụ nữ này, những rắc rối như hikikomori mang lại cho họ mục đích và động lực. Họ gây ảnh hưởng đến mong muốn của con mình để gây sự chú ý bởi vì mong muốn của họ là cần thiết. Do vậy, vòng tròn luẩn quẩn lại tiếp tục. Trường hợp này khác xa các trường hợp thông thường, và nó chủ yếu là lý thuyết dựa trên những gì mà tôi quan sát được.

 

EPSON DSC picture

EPSON DSC picture

 

Hikikomori có thể báo hiệu sự sụp đổ của Nhật Bản trong tương lai?

Rõ ràng hikikomori là một vấn đề xã hội nghiêm trọng đối với Nhật Bản, nhưng họ thậm chí còn có thể đặt ra mối đe dọa lớn hơn về kinh tế-xã hội. Nếu con số thống kê cao hơn là chuẩn xác thì có khoảng 2.000.000 người trẻ không tham gia vào đời sống xã hội. Và theo một số nhà nghiên cứu, con số này đang tăng nhanh chóng. Những thanh niên không có việc làm, họ không phải chi trả các khoản đóng góp xã hội, họ không kết hôn hay sinh con.

Mức lương trung bình của người Nhật là khoảng 3,5 triệu yên mỗi năm (khoảng 29,000USD). Tại Nhật Bản, bạn sẽ phải trả hơn 70.000 yên lương hàng tháng cho bảo hiểm y tế, thuế và hưu trí. Vì vậy, nếu mức lương trung bình hàng tháng là 290.000 yên và bạn phải nộp 70.000 yên cho chính phủ, như vậy khoản thu của chính phủ mỗi năm sẽ là 840.000 yên. Nếu tất cả hikikomori đều đang trong độ tuổi lao động và không phải nộp các khoản chi phí này thì chính phủ sẽ tổn thất 1.680.000.000.000 yên mỗi năm! Đó là khoản tiền mà Nhật Bản sẽ cần khi cha mẹ của tất cả những thanh niên hikikomori đó nghỉ hưu.

Và khi những người nuôi nấng và chăm sóc họ không còn nữa, những thanh niên chối bỏ xã hội này sẽ xoay xở ra sao?

Kết luận

Mỗi xã hội trên thế giới đều có các chính sách ngoại giao khác nhau để tạo nên xã hội hoàn hảo của riêng mình. Tuy nhiên, những chính sách đó có thể mang lại những hậu quả ngoài ý muốn. Ví dụ, chủ nghĩa tư bản biến không thể thành có thể dù bạn ở bất kỳ hoàn cảnh nào, bằng cách đổ mồ hôi tự kiếm sống, nhưng trong một hệ thống như vậy sẽ luôn có những người bị thua thiệt, đó chính là người nghèo.

Nhật Bản cũng vậy, không có khác biệt với bất kỳ xã hội nào trên thế giới. Sử dụng các chính sách nhất định để nhận được tối đa từ người dân và duy trì trật tự trong nước, nhưng những công cụ tương tự tạo nên hikikomori là một mối đe dọa cho toàn thể xã hội. Tương lai nào cho họ? Chúng ta có thể làm gì để giúp họ? Chúng ta có thể làm gì để giúp cha mẹ của nhưng đứa trẻ hikikomori? Đây là những câu hỏi mà Nhật Bản sẽ phải sớm giải quyết.

 

Trả lời